GTVT Quảng Trị phục vụ cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước(1954-1975)
Ngày 20/7/1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ xâm lược kết thúc thắng lợi, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định
Giơnevơ. Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền,
Quảng Trị nằm trên vĩ tuyến 17 chia làm hai khu vực: khu vực ở bờ bắc sông Bến
Hải gồm đại bộ phận của huyện Vĩnh Linh (gọi là khu vực Vĩnh Linh) được hoàn
toàn giải phóng, cùng với các tỉnh, thành phố của miền Bắc nước Việt Nam quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; khu vực ở bờ nam sông Bến Hải gồm có: xã Vĩnh Liêm và 1/3
xã Vĩnh Sơn (của huyện Vĩnh Linh), các huyện: Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá,
Triệu Phong, thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ) và Hải Lăng gọi là tỉnh Quảng Trị cùng
với các tỉnh, thành phố của miền Nam nước Việt Nam trở thành nơi tập trung của
quân Pháp, thuộc quyền kiểm soát của đối phương...
Ngay sau
khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, Quảng Trị như hình ảnh của nước Việt Nam thu
nhỏ, hai đơn vị hành chính là: Quảng Trị, khu vực Vĩnh Linh, với hai chế độ
khác nhau, trong cùng một lúc phải đồng thời tiến hành hai cuộc cách mạng: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
A. KHU VỰC
VĨNH LINH
Triển
khai Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn tỉnh (21/7/1954), dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban Kháng chiến hành chính huyện, được sự hướng dẫn của Bộ
Giao thông công chính, Phòng Giao thông vận tải huyện Vĩnh Linh được thành lập,
trực thuộc Ty Giao thông vận tải huyện Quảng Bình do đồng chí Lê Hy làm Trưởng
phòng, đồng chí Hoàng Công Thiêm làm Phó phòng.
Hoạt
động của Phòng Giao thông vận tải Vĩnh Linh lúc này đã góp phần cùng với các
ngành tổ chức việc tiếp thu, tiếp quản vùng mới giải phóng ngay sau khi thực
dân Pháp rút khỏi mảnh đất Vĩnh Luinh vào lúc 14 giờ ngày 25/8/1954. Các cơ
quan của huyện từ chiến khu và các vùng di chuyển về trung tâm huyện. Nhân dân
ở đồng bằng trước đây sơ tán lên phía tây huyện nay trở về với quê hương thôn
xóm của mình...
Hoà bình
được lập lại, nhân dân Vĩnh Linh phải xây dựng quê hương trong hoàn cảnh vô
cùng khó khăn, nền kinh tế lạc hậu, lại phải chịu hậu quả của 15 năm chiến
tranh tàn phá, hệ thống giao thông vận tải đều bị phá hoại nghiêm trọng...
Ngày
02/9/1954, gần 3 vạn nhân dân, cán bộ, chiến sĩ huyện Vĩnh Linh dự cuộc mít
tinh lớn tại sân vận động Trạng Cù để kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc
khánh 2/9, mừng quê hương được giải phóng và đón nhận nhiệm vụ của giai đoạn
cách mạng mới như: khẩn trương ổn định nơi ăn ở, đưa mọi hoạt động của Đảng bộ
và nhân dân trở lại bình thường, chống âm mưu thâm độc của địch (như chúng ra
sức dụ dỗ, lừa gạt, cưỡng ép đồng bào, nhất là giáo dân di cư vào Nam); đồng
thời tổ chức tốt việc đón tiếp hàng vạn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam ra
tập kết tại quê hương hoặc đang trên đường ra các tỉnh phía Bắc...
Qua thực
tế tình hình diễn biến từ cuối 1954, đầu 1955, khu vực Vĩnh Linh đã trở thành
vị trí đặc biệt, là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là nơi trực tiếp
đấu tranh với địch để bảo vệ khu phi quân sự, bảo vệ pháp lý Hiệp định
Giơnevơ... Ngày 25/5/1955, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 16/NQ-TW thành lập
Đảng uỷ khu vực gồm 3 đồng chí, do đồng chí Lê Thanh Liêm, nguyên uỷ viên
Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị, làm Bí thư Khu uỷ. Với nhiệm vụ của Đảng bộ khu
vực Vĩnh Linh là “Ra sức củng cố, xây
dựng khu vực Vĩnh Linh về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá xã hội;
kiên quyết đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ quy chế
khu phi quân sự, bảo vệ an toàn đời sống của nhân dân, thực hiện chính sách
quan hệ hai miền Bắc - Nam của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
Ngày 16/6/1955, Chính phủ ra Nghị định số 551/TTg thành lập Đặc khu Vĩnh Linh: “Khu vực Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị từ
nay được tổ chức thành một đơn vị hành chính riêng, ngang với một tỉnh, dưới sự
chỉ đạo của Chính phủ Trung ương”. Thực hiện Nghị định đó, Uỷ ban Hành
chính khu vực Vĩnh Linh được thành lập, do đồng chí Hoàng Đức Sản làm Chủ tịch.
Dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ và Uỷ ban Hành chính khu vực, được sự giúp đỡ của
các ban, ngành ở Trung ương, từ tháng 7/1955, các ban của Đảng uỷ khu vực, các
Phòng, Ty chuyên môn, các đoàn thể nhân dân của khu vực được thành lập với chức
năng nhiệm vụ ngang như cấp tỉnh. Phòng Giao thông vận tải khu vực Vĩnh Linh
trực thuộc đặc khu Vĩnh Linh và chị lãnh
đạo, chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của Bộ
Giao thông vận tải và Bưu điện.
I. GIAO THÔNG VẬN TẢI KHU VỰC VĨNH
LINH PHỤC VỤ NHIỆM VỤ KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1954 - 1964)
Nghị quyết
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 năm 1954 nêu rõ: “Khôi phục nhanh chóng đường xe lửa, đường
ôtô, vận tải sông ngòi có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Đó là điều không thể
thiếu được trong việc phát triển sản xuất, phồn vinh kinh tế, làm cho giao lưu
hàng hoá giữa thành thị và nông thôn hoạt động”.
Nhận
thức được vai trò quan trọng của ngành Giao thông vận tải trong nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt là trong thời kỳ khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội sau
chiến tranh, cán bộ công nhân viên chức phòng Giao thông vận tải khu vực Vĩnh
Linh đã dốc lòng, dốc sức góp phần cùng toàn dân trong khu vực thực hiện các
nhiệm vụ trên mặt trận giao thông vận tải. Trước hết là tập trung lực lượng
phối hợp với Ty Giao thông Quảng Bình sửa chữa, khôi phục tuyến quốc lộ 1A đoạn
từ bắc cầu Hiền Lương đến nam Quán Hàu. Mở rộng con đường từ Tân Ấp đi xóm Cục
- Panaphàn (Lào). Đồng thời dựa vào các địa phương, cùng với địa phương xã,
thôn huy động lực lượng nhân dân tu bổ các đường liên xã, liên thôn, làm mới
các tuyến đường ở khu vực Hồ Xá, hệ thống ven biển được tổ chức triển khai.
Giao thông được khôi phục phát triển đã góp phần tăng nhanh các loại phương
tiện vận tải, nhất là bằng thuyền bè trên sông, biển đồng thời tổ chức các
luồng ôtô liên tỉnh, kịp thời phục vụ sản xuất, dân sinh, quốc phòng, an
ninh...
Tranh
thủ thời gian Hiệp định đình chiến có hiệu lực, Phòng Giao thông vận tải đã tổ
chức và quản lý 3 cửa khẩu dọc theo giới tuyến quân sự tạm thời là: Thủy Bam
Hiền Lương, Mũi Si, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào ta ở hai miền Bắc -
Nam sông Bến Hải qua lại thăm viếng, buôn bán... Kết quả, có ngày trên 300
người qua lại các cửa khẩu, có tháng đồng bào miền Nam ra miền Bắc trên 5.000
người, đồng bào miền Bắc vào miền Nam trên 3.000 người. Quan hệ kinh tế đôi bờ
sông Bến Hải phát triển như giúp nhau cày ruộng, giống má, trâu bò.
Trên cơ
sở duy trì được mối quan hệ bình thường giữa hai miền, được sự hướng dẫn hỗ trợ
của Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện, Phòng Giao thông vận tải đã tổ chức hệ
thống giao thông liên lạc hợp pháp, bất hợp pháp để đưa cán bộ, đồng bào miền
Nam ra miền Bắc, miền Bắc vào miền Nam hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng,
trước hết là ở địa bàn các huyện Gio Linh, Cam Lộ...
Biết tin
Bác Hồ sẽ vào thăm Quảng Bình - Vĩnh Linh vào sáng ngày 16/6/1957, chấp hành
quyết định của Đảng uỷ khu vực mà trực tiếp là đồng chí Hồ Sĩ Thản - Bí thư,
đồng chí Phan Du phụ trách đường dây liên lạc với Trị - Thiên đã cử cán bộ giao
thông hoả tốc vào miền tây Gio Linh đưa thư mời đồng chí Nguyễn Đức Dũng - Bí
thư Đảng bộ huyện Gio Linh ra Vĩnh Linh ngay trong đêm 15/6/1957 để kịp ra
Quảng Bình gặp Bác Hồ.
Cuộc đón
tiếp Bắc Hồ được tổ chức long trọng tại Hội trường Tỉnh uỷ Quảng Bình (tại Đồng
Hới). Nói chuyện với trên 2.000 đại biểu đại diện cho Đảng bộ và nhân dân Quảng
Bình, Vĩnh Linh - Quảng Trị có mặt hôm đó, Bác Hồ căn dặn: “Quảng Bình cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáo với miền
Nam, mọi việc làm tốt hay xấu ở đây đều ảnh hưởng nhất định đến miền Nam, đều
có ý nghĩa đến việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động liều lĩnh thì
Vĩnh Linh, Quảng Bình phải đương đầu với chúng trước hết và phải bảo đảm đánh
thắng chúng trước hết”.
Lời căn
dặn của Bác Hồ một lần nữa khẳng định vị trí quan trọng của Vĩnh Linh - Quảng
Bình. Lời căn dặn đó của Bác Hồ là kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ và hành động
của Đảng bộ và nhân dân khu vực Vĩnh Linh trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Sau hàng
chục lần đưa quân lấn chiếm đất đia vùng Hướng Lập bị thất bại, cuối năm 1958,
Mỹ - Diệm phối hợp với bọn phản động của Vương quốc Lào lấn chiếm Tà Rìn, đóng
các đồn: Ra Mại, Vàng Rớ, A Ròng, Chong Tức, Pa Lăng Tây, Rà Cồ... Chúng đã gây
khó khăn cho ta, ngăn cản việc vận chuyển tiếp tế lương thực, thực phẩm, đạn
dược từ đồng bằng lên miền núi cung cấp cho các lực lượng vũ trang của ta đang
làm nhiệm vụ canh phòng biên giới ở Hướng Lập - Hướng Hoá.
Trước
tình hình đó, Quân khu uỷ khu IV đã bàn với Tỉnh uỷ Quảng Bình tìm mọi cách
giúp đỡ khu vực Vĩnh Linh kịp thời khắc phục khó khăn đột xuất do Mỹ và bè lũ
tay sai gây ra. Kết quả tỉnh Quảng Bình đã huy động hơn 3.000 dân công của hai
huyện: Lệ Thuỷ, Quảng Ninh vượt suối, băng rừng không kể ngày đêm vặn chuyển 60
tấn lương thực, thực phẩm lên Hướng Lập. Từ đó, lực lượng vũ trang của ta ở
Hướng Lập vượt qua được nạn đói thiếu, tiếp tục nhiệm vụ.
Thời
gian từ năm 1955 đến năm 1959, Phòng Giao thông vận tải Vĩnh Linh đã mở được
một số tuyến giao thông sau:
- Tuyến
Đông Trường Sơn từ Bà Hà - Vĩnh Linh vào đường 9 - Cam Lộ do đồng chí Phan Du
(Đảng uỷ viên Đảng uỷ khu vực Lĩnh Linh) phụ trách cùng với một số cán bộ giao
thông liên lạc (nguyên trước đây là cán bộ giao bưu thời chống Pháp) đạp núi,
băng rừng nhằm hướng phía nam xoi đường giữa rừng cây, lau lách rậm rạp... Để
giữ bí mật, tuyến đường này xa các bản làng. Các trạm để cho khách qua lại nghỉ
ngơi trong đêm phải đóng giữa rừng già. Tuyến của đồng chí Phan Du ở bắc đường
9, bắt liên lạc với tuyến phía nam đường 9 do đồng chí Lê Hành (nguyên là Bí
thư Đảng bộ huyện Hướng Hoá) phụ trách...
- Tuyến
đường biển từ Tùng Luật vào Cửa Việt, cửa Thuận An... do đồng chí Thê phụ
trách. Cán bộ, nhân viên giao thông vận tải liên lạc hoạt động trên tuyến này
đóng vai ngư dân Vĩnh Linh đi đánh cá trên biển. Thời kỳ đầu vượt biển với
nhiệm vụ đưa đón cán bộ trong nam (Trị - Thiên, khu V) ra họp, học tập, chữa
bệnh hoặc cán bộ từ miền Bắc vào tăng cường cho miền Nam... Về sau, tuyến đường biển này
làm nhiệm vụ chủ yếu là vận chuyển súng đạn (loại nhẹ) và nhu yếu phẩm cung cấp
cho chiến trường Trị - Thiên và một số tỉnh ở khu V...
Về lực
lượng vận tải: qua cải tạo vận tải tư nhân, năm 1957, khu vực Vĩnh Linh thành
lập Xí nghiệp Công tư hợp doanh vận tải ôtô.
Đầu năm
1959, Xí nghiệp Công tư hợp doanh vận tải ôtô chuyển thàn Xí nghiệp Quốc doanh
vận tải ôtô có 33 xe do đồng chí Lê Xảo làm Giám đốc. Xí nghiệp vận tải Quốc
doanh ra đời đã đảm nhận những khối lượng vận tải chủ yếu, phục vụ khôi phục,
phát triển kinh tế khu vực Vĩnh Linh.
Đầu năm
1961, thực hiện chủ trương của Đảng uỷ khu vực, Phòng Giao thông vận tải khu
vực Vĩnh Linh đã tổ chức cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngành học
tập, nghiên cứu các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng lao động Việt Nam.
Bước vào
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) Bác Hồ rất quan tâm đến nông dân và
các hợp tác xã nông nghiệp, về giao thông vận tải nông thôn, Bác nhận xét và
chỉ rõ: “... Đường sá còn rất kém. Cố
nhiên đắp đường lớn là do Trung ương phụ trách, Bộ Giao thông chịu trách nhiệm.
Nhưng địa phương có thể làm những đường nhỏ từ làng này qua làng khác, thì xã
tự động làm. Nhiều xã đã làm tốt, nên làm cho đồng bào thấy rõ lợi ích của việc
làm thêm đường sa, tuyên truyền giải thích cho khéo thì đồng bào tự làm và làm
tốt”.
Thực
hiện chỉ thị của Trung ương Đảng về vấn đề phát triển mạng lưới giao thông vận
tải nông thôn, Bộ Giao thông vận tải mở Hội nghị chuyên đề về công tác giao
thông vận tải nông thon (1961).
Được tin
đó, Bác Hồ đã gửi thư cho Hội nghị: “Được tin các cô, các chú họp hội nghị tổng
kết công tác làm giao thông vận tải nông thôn, miền núi. Nhân dịp này Bác nhắc
một số điểm để các cô các chú lưu ý.
Mấy năm
qua, các địa phương đều có cố gắng sửa chữa thêm được nhiều đường sá, đóng thêm
nhiều xe và thuyền. Như vậy là khá! Nhưng so với yêu cầu nông nghiệp trong kế
hoạch 5 năm thì số đường sá xe thuyền còn quá ít.
Cho đến
nay, làm đường chưa chú ý phục vụ cho sản xuất, chưa kết hợp chặt chẽ giao
thông với thuỷ lợi.
Để hoàn
thành tốt kế hoạch 5 năm chúng ta phải cố gắng hơn nữa, làm tốt hơn nữa.
- Phải
lấy phục vụ sản xuất là chủ yếu.
- Phải
biết dựa vào dân là chính.
- Các
Cấp uỷ (tỉnh, huyện, xã) phải quan tâm đúng mức, chỉ đạo chặt chẽ, không được
khoán trắng cho cán bộ chuyên môn.
... Bác
gởi đến Hội nghị một lá cờ luân lưu hàng năm để tặng cho tỉnh nào làm giao
thông vận tải nông thôn khá nhất”.
Sau cuộc
hội nghị có tính lịch sử nói trên, phong trào thi đua làm giao thông nông thôn
dấy lên mạnh mẽ khắp miền Bắc Việt Nam. Ở khu vực Vĩnh Linh, Uỷ ban
Hành chính phu vực chủ trương huy động cùng một lúc 2.000 dân công nghĩa vụ làm
đường.
Phòng
GTVT khu vực sử dụng lực lượng đó, đồng thời dựa vào lực lượng tại chỗ của các
thôn, bản khẩn trương thi công các tuyến đường:
- Từ ga
Sa Lung đi Cầu Điện - Bao Đài.
- Từ Khe
Bến Than đi Cù Bạc
- Từ Bên
Quan đi Bãi Gỗ.
- Từ
quốc lộ 1A đi Bến Than, con đường này nối với con đường 70 đi Cửa Tùng, chạy
song song với con đường do Mỹ - nguỵ mới mở ở bờ nam sông Bến Hải.
Đầu năm
1964, thực hiện chủ trương của Bộ, Phòng GTVT khu vực Vĩnh Linh được chuyển
thành Ty Kiến Trúc - Giao thông khu vực Vĩnh Linh do đồng chí Trần Trọng Ban
làm Trưởng Ty và đồng chí Hoàng Công Thiêm làm Phó Trưởng Ty.
Ty Kiến
trúc - Giao thông khu vực chủ trương lợi dụng nền đường sắt cũ, đắp thành đường
ôtô. Xây dựng bến Phà Sa Lung; mở rộng con đường từ Hồ Xá đi phà Phúc Lâm. Con
đường Hồ Xá - Phúc Lâm chia thành 2 nhánh: một nhánh lên Thuỷ Ba Hạ (Vĩnh
thuỷ); một nhánh đi qua phà Tiên An, giáo đường bờ sông (Vĩnh Sơn). Đồng thời
mở thêm con đường xuất phát từ quốc lộ 1A (thị trấn Hồ Xá) đi Vĩnh Thái; tu sửa
hệ thống đường sá sẵn có ở phía đông của khu vực Vĩnh Linh.
Các
tuyến đường mới được xây dựng, đã hình thành mạng lưới giao thông liên hoàn từ
phía đông lên phía Tây, từ phía Bắc (ranh giới Vĩnh Linh - Quảng Bình) đến phía
Nam của khu vực (bờ Bắc sông Bến Hải) tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động
của ngành vận tải khu vực Vĩnh Linh trong việc chi viện sức người sức của cho
tiền tuyến lớn miền Nam.
Về vận
tải đường biển, để làm nhiệm vụ tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, khu vực Vĩnh Linh đã
thành lập Hợp tác xã Vận tải đường biển Xuân Tùng. Mỗi chuyến ra đảo có một đội
ngũ gồm 5 - 6 chiếc thuyền chèo tay, mỗi chiếc có trọng tải khoảng 6 - 7 tấn
gồm nước uống, lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu xây dựng...
Từ năm
1965, ngoài nước uống, lương thực, Hợp tác xã Vận tải đường biển Xuân Tùng còn
làm nhiệm vụ đưa đón bộ đội, thương binh, vũ khí đạn dược cho đảo Cồn Cỏ và
dành riêng một tổ thuyền (2-3 chiếc) chuyên làm nhiệm vụ đưa bộ đội từ miền Bắc
vào miền Nam.
Với khối
lượng công việc lớn hơn trước rất nhiều nên Hợp tác xã Vận tải đường biển Xuân
Tùng được quyền điều động (theo Quyết định của Uỷ ban Hành chính khu vực Vĩnh
Linh) toàn bộ thuyền chèo bằng tay (kể cả lực lượng thuỷ thủ) của các xã Vĩnh
Quang, Vĩnh Thạch, Vĩnh Giang. Vừa làm nhiệm vụ vận chuyển, vừa làm nhiệm vụ
chiến đấu (khi gặp địch), nên việc trang bị vũ khí cho mỗi thuyền của hợp tác
xã được tăng cường. Trước đây mỗi thuyền được trang bị hai khẳu AK, nay được
trang bị bốn khẩu AK, một trung liên và một khẩu B40.
Tháng
3/1964, Tổng thống Mỹ Giôn Xơn phê chuẩn kế hoạch Dêxôtô dùng tàu khu trực Mỹ
tuần tiễu ở vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn tiếp tế đường biển của ta, đồng thời viện
trợ cho hoạt động của các tàu biệt kích nguỵ vây bắt nhân dân ta đánh cá ngoài
biển để khai thác tin tức.
Trước
tình hình đó, ngày 27/3/1964, tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: “Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc
thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết
đánh bại chúng. Vì các nước xã hội chủ và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết
sức ủng hộ ta. Vì nhân dân tiến bộ Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cũng sẽ phản
đối”
Mùa hè
1964, những hoạt động khiêu khích, phá hoại miền Bắc của Mỹ - Nguỵ diễn ra liên
tục. Chúng ráo riết chuẩn bị để đánh phá quy mô lớn miền Bắc nước ta. Biên đội
tàu sân bay Kittihốc mang tên lửa có đầu đạn hạt nhân được điều đến biển Đông.
Một số phi đội máy bay ném bom chuyển từ các căn cứ của Mỹ ở Nhật Bản xuống các
nước Đông Nam Á. Ngày 31/7/1964, tàu khu trục Mađốc của Mỹ vào khu vực phía Nam
đảo Cồn Cỏ (Vĩnh Linh) bắt đầu “hải trình” do thám, uy hiếp bờ biển của ta.
Tất cả
những hoạt động của Mỹ đều chuẩn bị cho việc gây ra cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho miền Nam.
Về phía
ta, phương thức vận tải bằng các phương tiện thô sơ của Đoàn 559 không đủ sức
đáp ứng cuộc chiến đấu quy mô ngày càng lớn ở miền Nam... Đầu năm 1964, Đoàn 559 tập
trung lực lượng, phương tiện mở đường vận tải cơ giới từ tây khu vực Vĩnh Linh
vượt vượt qua đường 9 vào đến Tà Xẻng. Đường giao liên cũng được tổ chức lại
với những cung, những chặng đường thích hợp đi song song với đường vận tải bảo
đảm cung cấp lương thực và các nhu cầu cần thiết cho bộ đội hành quân vào miền
Nam...
Sau hàng
loạt hành động khiêu khích phá hoại có hệ thống và sau khi dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” đánh lừa dư luận
nhân dân thế giới và dư luậ nước Mỹ, ngày 05/8/1964, đế quốc Mỹ chính thức dùng
không quân đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân với quy mô lớn đối với miền Bắc nước ta. Ngày 08/8/1964, máy bay Mỹ
bắn phá đảo Cồn Cỏ...
Trong
tình hình cả nước có chiến tranh, kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) mới thực hiện
được 4 năm phải dừng lại và bước vào giai đoạn cách mạng mới. Nhìn lại chặng
đường 10 năm (1954 - 1964), Đảng bộ và nhân dân khu vực Vĩnh Linh đã khắc phục
được nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, do nền kinh tế quá nghèo nàn lạc
hậu, do thiên tai, do âm mưu của địch ở bên kia giới tuyền thường xuyên khiêu
khích phá hoại, đã tiến lên từng bước vững chắc. Trong đó mạng lưới giao thông
vận tải do nhân dân tự làm là chủ yếu, đã nối liền các xã với thị trấn, từ hợp
tác xã ra tận đồng ruộng, thuận tiện cho việc vận chuyển phục vụ sản xuất và
chiến đấu1.
II. GIAO THÔNG VẬN TẢI KHU VỰC VĨNH
LINH PHỤC VỤ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN BẮC CỦA ĐẾ QUỐC
MỸ VÀ CHI VIỆN CHO CUỘC CHIẾN ĐẤU GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1964 - 1975)
Tháng
6/1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu
phá tan âm mưu khiêu khích đánh phá miền Bắc của không quân địch”. Chỉ thị nêu
rõ: “Các lực lượng vũ trang trên miền Bắc
phải sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết tiêu diệt địch nếu chúng xâm phạm miền Bắc,
đẩy mạnh chi viện cho miền Nam”.
Khi máy
bay Mỹ bắt đầu leo thang đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 11 của Ban chấp hành Trug ương Đảng (khoá III) chỉ rõ: “Giao thông vận tải là công tác trung tâm
đột xuất số 1 có tính chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta”...
“Vận tải là nhiệm vụ chính trị cao nhất”.
Tại Hội
nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng (7/1965), đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất
Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh “Dù
thế nào chúng ta cũng phải có đường sá, phải vận chuyển hàng hoá. Đó là vấn đề
sống còn... Bí quyết thắng lợi trong cuộc chiến đấu có khi chỉ là một con
đường... phải tập trung toàn lực của Đảng bộ và của nhân dân mỗi địa phương để
làm cho kỳ được”.
Ở khu
vực Vĩnh Linh, Đảng uỷ đã mở Hội nghị xác định rõ đặc điểm của khu vực Vĩnh
Linh lúc này là vị trí đầu cầu, tiền tuyến của miền Bắc, hậu phương của miền
Nam, nơi tập trung quân, kho tàng đạn dược của miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền
Nam mà trực tiếp là chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên; đồng thời nêu lên nhiệm
vụ của khu vực trong tình hình mới là: “Tiếp
tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, song công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phục
vụ tiền tuyến miền Nam phải được thường xuyên coi trọng”.
Từ ngày
08/02/1965, máy bay Mỹ bắt đầu “leo thang” đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở
vào mà chủ yếu là đánh phá mạng lưới giao thông vận tải. Mục tiêu của Mỹ - nguỵ
đặt ra đối với khu vực Vĩnh Linh trong giai đoạn đầu đánh phá là: huỷ diệt thị
trấn Hồ Xá - Trung tâm chính trị, văn hoá, thành tựu 10 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội của khu vực Vĩnh Linh; đánh chiếm đảo Cồn Cỏ1, đánh phá kho
tàng của ta ở miền Tây, đường 559, đường 1 và một số trục đường chính của khu
vực Vĩnh Linh nhằm cản trở giao thông, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc...
Ngày
13/021/1965, sau khi soát xét lại tình hình phòng, trán, nêu gương các đơn vị,
cá nhân trong các lực lượng vũ trang vừa qua đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi máy
bay địch, được Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi, Bác Hồ gởi thư thăm hỏi,
động viên...Hội nghị Đảng uỷ khu vực đã ra Nghị quyết: “Phải khẩn trương phân tán kho tàng lương thực, mậu dịch, bệnh viên,
trường học, các cơ quan đống trên địa bàn thị trấn phải sơ tán về nông thôn.
Xây dựng hầm hào để bảo vệ con người và tài sản của Nhà nước, của cán bộ, nhân
dân”.
Thực hhiện
nghị quyết của Đảng, Ty Giao thông - Kiến trúc đã khẩn trương bố trí lực lượng,
phân bổ cán bộ, phương tiện vận tải đến cùng với các ban, ngành trong khu vực
làm việc bất kể ngày đêm nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, hàng ngàn tấn
hàng hoá, lương thực, máy móc, phương tiện làm việc đều được di chuyển từ thị
trấn Hồ Xá đến các địa điểm sơ tán ở nông thôn, miền núi; đồng thời vận động,
tổ chức đưa 2.900 hộ gia đình nhân dân, cán bộ, bộ đội ở thị trấn Hồ Xá dân sơ
tán hết về vùng nông thôn.
Khu vực Vĩnh
Linh, Mỹ - ngụy tập trung đánh phá nhà Phúc Lâm, đồi 74 (thuộc xã Vĩnh Thuỷ),
xòm Đôộng Sởi (thuộc xã Vĩnh Thạch), cầu Chấp Lễ, cầu Lèo Heo...
Trước tình hình đó, Đảng uỷ khu vực Vĩnh Linh vạch ra
chủ trương và được Bộ GTVT đồng tình ủng
hộ là mở ra tuyến đường tránh quốc lộ 1A.
Đầu tháng 3/1965, Đảng uỷ khu vực bổ nhiệm đồng chí Lê
Cúc (đảng uỷ viên và Uỷ ban hành chính khu vực) làm Trưởng ty Giao thông - Kiến
trúc kiêm Trưởng ban Bảo đảm giao thông khu
vực, thay đồng chí Trần Trọng Ban đi nhận nhiệm vụ mới. Ty Giao thông -
Kiến trúc đã cho mở các tuyến đường mới:
- Tuyến từ bắc cầu Khạy vào cắt ngang tuyến Hồ Xá - Cáp
Lài, giáp đường 70 ra quốc lộ 1A, đến đường bờ sông Bến Hải.
- Tuyến từ xã
Vĩnh Nam
xuyên qua các xã: Vĩnh Trung, Vĩnh Tú, ra Mỹ Hội (xã Vĩnh Thái), ta sử dụng
tuyến này để giấu xe, giấu kho hậu cần, đặc biệt là để bộ đội chủ lực của ta
kéo pháo ra bờ biển nhằm phản pháo của hải quân Mỹ ở vùng biển Vĩnh Linh -
Quảng Bình.
Ngày 08/3/1965, địch oanh kích đảo Cồn Cỏ, một quả bom
Mỹ rơi trúng bể chứa nước ngọt của bộ đội ta trên đảo. Không có nước, anh em bộ
đội phải chặt cây chuối rừng vắt lấy nước để uống. Bọn Mỹ - nguỵ đoán biết điều
đó, một mặt chúng cho máy bay tập trung bom đạn đánh đi, đánh lại, mặt khác
chúng dùng tàu chiến bao vây, bịt kín mọi lối vào ra giữa đảo và đất liền...
Trước tình hình đó, Đảng uỷ khu vực ra lời kêu gọi “Tất cả vì đảo”...và đưa ra cho Đảng bộ
và nhân dân trong khu vực trao đổi, thống nhất. Từ đó, khu vực Vĩnh Linh hạ
quyết tâm giữ đảo đến cùng.
Quyết tâm giữ đảo đến cùng của Đảng bộ và nhân dân khu
vực Vĩnh Linh đã được Trung ương Đảng và Chính phủ khích lệ, giúp đỡ. Phong
trào “Tất cả vì đảo” trong các tầng
lớp nhân dân, nhất là trong lực lượng vũ trang, đoàn viên thanh niên. Ngoài đảo
nêu khẩu hiệu “Còn đất liền, còn đảo”. Trong
đất liền đáp lại “Còn đảo, còn đất liền”.
Đội truyền vận chuyển tiếp tế cho đảo được thành lập
ngoài lực lượng thanh niên, tráng niên, mỗi thuyền còn có vài ba cụ phụ lão dày
dạn sóng gió, dày dạn kinh nghiệm đi biển.
Đội thuyền gồm những chiếc thuyền gỗ, chạy buồm, chèo
tay, luồn lách, vượt qua vòng vây của hải quân, không quân Mỹ, vận chuyển được
hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, nước ngọt từ đất liền ra đảo, kịp
thời giải quyết khó khăn. Bộ đội ta trên đảo có lương thực, có vũ khí tiếp tục
chiến đấu với đế quốc Mỹ và bọn tay sai một cách quyết liệt...
Trong phong trào vận chuyển phục vụ đảo Cồn Cỏ, nổi bất
có thuỷ thủ Lê Văn Ban. Từ giữa nưam 1965 đến đầu năm 1967, anh đã trực tiếp
tham gia 21 chuyến thuyền chèo tay chuyên chở lương thực, thực phẩm, súng đạn,
bộ đội, thương binh từ đất liền ra đảo và từ đảo ra đất liền. Chuyến nào anh và
đồng đội cũng dũng cảm vượt qua mạng lưới bao vây, săn đuổi của hải quân, không
quân Mỹ và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Có lần thuyền từ đảo vào
đất liền (6/1965) bị 3 tàu chiến Mỹ phục kích, chúng đánh chìm 8 chiếc thuyền
của ta (có 40 thuỷ thủ hy sinh). Cùng lúc đó một trận mưa to, gió lớn ập đến,
chiếc thuyền do anh Ban chỉ huy mất phương hướng, trôi ra ngoài khơi cách đảo
Cồn Cỏ về phía đông - nam khoảng 40km thuộc vùng biển Hải Lăng - nơi bọn Mỹ -
nguỵ kiểm soát. Anh em thủy thủ sau một đêm vật lộn với địch hoạ, thiên tai, ai
cũng mệt lử, vừa đói vừa rét... Trước tình hình đó, anh Ban vẫn bình tĩnh cùng
anh em bàn bạc tìm cách đối phó. Anh em quyết định thả neo, vớt rong biển, hứng
nước mưa nấu ăn, đồng thời lau chùi súng đạn chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu... Sau
hai ngày đêm bồng bệnh giữa sóng gió, anh em mới tìm được hướng vào đât sliền.
Anh Ban quyết định nhổ neo, kéo buồm, thẳng tiến vào bờ, được anh em du kích và
nhân dân vùng Gia Đăng - Triệu Phong đón tiếp niềm nở, phân công nhau nuôi
giấu, che chở và sau đó tổ chức cho anh em ra khu vực Vĩnh linh theo con đường
Trường Sơn Đông.
Trở lại đơn vị cũ (C22) đúng vào lúc Mỹ - nguỵ đang tập
trung đánh phá khu vực Vĩnh Linh - Quảng Bình, bao vây, cô lập đảo Cồn Cỏ. Đoàn
văn công của khu vực ra phục vụ các chiến sĩ ở đảo và đặc biệt có một số thương
binh nặng phải chuyển gấp vào đất liền để có điều kiện chăm sóc, điều trị mà
kéo dài hàng tuần vẫn chưa chuyển họ vào được. Để tháo gỡ bế tắc, Ban chỉ huy
đơn vị cử Lê Văn Ban ra đảo, tìm cách đưa thương binh và đoàn văn công vào đất
liền.
Nhận nhiệm vụ mới, anh Ban hăng hái ra đảo. Được các
chiến sĩ ở đảo cung cấp tình hình hoạt động của địch trong thời gian qua. Trên
cơ sở đó, anh ban đã tìm ra quy luật phục kích của bọn hải quân Mỹ ở vùng này
và quyết định cho thuyền chở anh em thương binh... rời đảo vào đất liền đúng
giữa trưa. Kết quả, những chuyến thuyền từ đảo Cồn Cỏ vào đất liền do anh Ban
chỉ huy đều an toàn, trót lọt.
Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, lập được
thành tích xuất sắc, đáng được nêu gương cho quân và dân cả nước nói chung, cho
CBCNV ngành Giao thông vận tải Việt Nam nói riêng noi gương học tập, giữa năm
1967, Lê Văn Ban đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Tiếp theo sau việc thành lập đội thuyền chèo tay vận
tải phục vụ đảo Cồn Cỏ, đầu năm 1967, ngành Giao thông vận tải khu vực Vĩnh
Linh thành lập Đoàn thuyền vận tải đường biển gồm 13 chiếc, mỗi chếic có trọng
tải từ 5 đến 7 tấn, do anh Đậu Ngọc Danh làm đoàn trưởng. Đoàn thuyền vận tải
đường biển làm nhiệm vụ tiếp nhận hàng từ Cửa Sót - Hà Tĩnh... đưa vào nhập kho
tại Mỹ Trung, Gia Ninh - quảng Bình. Lực lượng ôtô vận tải của Đoàn 559 chốt ở
Vĩnh Chấp - Vĩnh Linh, của Xí nghiệp công tư hợp doanh ôtô khu vực Vĩnh Linh và
đội xe do đồng chí Cẩn phụ trách thay nhau ra Mỹ Trung nhận hàng, chuyển vào
phục vụ mặt trận Trị Thiên - Huế và B5...
Trong quá trình làm nhiệm vụ vận chuyển trên biển, bên
cạnh anh Lê Văn Ban, có một số cán bộ, thủy thủ khác đã nêu gương sáng quên
mình vì nhiệm vụ, với quyết tâm cùng toàn dân và dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược, như các anh: Đậu Ngọc Danh, trên đường làm nhiệm vụ bị máy bay Mỹ bắn
gãy một cánh tay. Trong cơn đau buốt dữ dội, anh Danh vẫn nghiến răng chịu
đựng, dồn hết tâm sức dùng cánh tay còn lại đưa thuyền vào nơi trú ẩn, lúc đó
anh mới tắt thở; anh Lê Hữu Ước được mệnh danh là mũi tên xanh. Anh Ước nhiều
lần xung phong vận chuyển bộ đội, hàng hoá ra đảo Cồn Cỏ trong hoàn cảnh phi
pháo địch đang tập trung oanh kích, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền
Nam, cô lập tiêu diệt bộ đội ta trên đảo Cồn Cỏ...
Từ tháng 6/1965 trở đi, địch không những đánh phá ban
ngày mà còn đánh phá giao thông vận tải của ta cả về ban đêm, tỷ lệ đánh phá
ban đêm chiếm tới 40% so với ban ngày. Từ chỗ đánh theo mục tiêu, chúng tiến
tới đánh theo toạ độ. Từ chỗ đánh vào cầu đường, các bến phà, các bến đò ngang,
về sau chúng đánh cả vào phương tiện vận tải. Ngoài việc đuổi đánh phương tệin
vận tải đang di chuyển trên đường, chúng còn cho máy bay đánh cả vào những nơi
mà chúng nghi là khu vực tập kết hàng hoá, cất giấu phương tiện vận tải như lùm
cây, búi cỏ lau lách ven đường, ven sông. Chúng dùng đại bác 20 ly bắn bừa bãi
để tìm kiếm, thấy chỗ nào phụt lửa lên là chúng tập trung bom đạn dội xuống.
Ngoài các loại bo, đạn thông thường, địch còn dùng bom
bi các cỡ, mìn lá, mìn vướng, mìn nhỏ có 3 càng khi nổ gây sát thương cho
người, hoặc phá thủng lốp xe. Chúng thả “cây nhiệt đới” để
thu, truyền tín hiệu tiếng động từ nơi thả về căn cứ của chúng. Sau khi nhận
được tín hiệu chúng cho máy bay đến oanh tạc ngay lập tức.
Mức độ đánh phá của địch năm sau tăng từ 2 đến 2,5 lần
so với năm trước và càng ngày chúng càng dùng cách đánh ác hiểm hơn.
Trong bom đạn khốc liệt của quân thù, việc bảo đảm giao
thông vận tải là nhiệm vụ trung tâm đột xuất
hàng đầu của Đảng bộ và nhân dân địa phương.
Cũng trong thời gian này (1967), thực hiện chủ trương
của Đảng uỷ và Uỷ ban Hành chính khu vực, bộ phận kiến trúc tác khỏi Ty Giao
thông - Kiến trúc, thành lập Đội công trình phục vụ việc đào địa đạo... Ty Giao
thông - Kiến trúc trở thành Ty Giao thông vận tải khu vực Vĩnh Linh.
Kết quả ngành Giao thông vận tải đã góp phần cùng quân
và dân cả nước giáng trả bọn xâm lược Mỹ những đònc hí tử, đập tan mưu đồ “Đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”,
đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miền
Bắc, hiên ngang đứng vững nơi đầu sóng ngọn gió, xứng đáng là tiền đồn của miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Tính đến cuối 1968, khu vực Vĩnh Linh đã bắn tan xác 235
máy ba Mỹ các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn cháy và bắn chìm 36 tàu chiến
và tàu biệt kích của địch, trong đó có 6 máy bay chiến lược B52 và chiến hạm
Niu-gơ-đi của hải quân Mỹ.
Về công tác phòng tránh: Trong 4 năm, quân và dân khu
vực Vĩnh Linh vừa kiên cường chiến đấu, sản xuất, vừa lập nên nhiều kỳ tích để
bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân trước sự tàn phá hết sức dã man của
địch. Gắn liền nhiệm vụ phòng tránh với nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, coi trọng
việc xây dựng hầm hào, coi hầm hào là cơ sở vật chất cho chiến đấu, sản xuất và
tổ chức đời sống, trước mắt cũng như lâu dài, kết hợp với việc xây dựng làng
chiến đấu. Toàn dân khu vực Vĩnh Linh đã nêu cao các khẩu hiệu: “Công sự hoá toàn Vĩnh Linh, biến khu vực
Vĩn Linh thành Cồn Cỏ anh hùng”. “Một
Chi bộ là một pháo đài. Mỗi hợp tác xã là một công sự, một người dân là một
chiến sĩ. Toàn khu vực là một chiến trường”.
Quyết tâm ấy đã biến thành hành động. Toàn khu vực đã
dành gần nửa số công lao động để đào đường hầm giao thông, dựng một hệ thống
giao thông hào thôn nối thôn, xã nối xã và hàng trăm km hào giao thông từ hầm ở
ra đồng, ra ruộng, ra giếng, hàng vạn hầm ăn, hầm ngủ, hầm sinh hoạt, trạm xá,
hợp tác xã mua bán, hầm ngoài đồng ruộng, hầm trong vườn, hầm ở trại chăn nuôi,
hầm ở đồi cao su, đồi chè... Tiêu biểu cho lĩnh vực hào giao thông ngầm ở khu
vực Vĩnh Linh là địa đạo Vịnh Mốc. Địa đạo Vịnh Mốc nằm trong lòng một quá đồi
đất đỏ bazan, có độ cao so với mặt biển tương đối lớn, thuộc địa phận xã Vĩnh
Thạch, cách thị trấn Hồ Xá (trung tâm huyện lỵ) khoảng 18km về phía Đông - Nam.
Ngoài khơi cách bờ biển thôn Vịnh Mốc gần 30km là đảo nhỏ tiền tiêu Cồn Cỏ.
Trong âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt nam, đé
quốc Mỹ đã tiến hành ở Vĩnh Linh một cuộc đánh phá mang tính huỷ diệt chưa từng
có trong lịch sử chiến tranh thế giới. Tính riêng ở Vịnh Mốc, một thôn nhỏ
(diện tích chưa đầy 1km2), với 82 nóc nhà của dân, có gần 300 khẩu,
mà trong thời gian 1965 - 1966 phải hứng chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ
của hơn 100 trận oanh tạc của máy bay Mỹ. Đến giữa năm 1965, thôn Vịnh Mốc đã
bị bom đạn Mỹ thiêu trụi.
Trước hiểm hoạ chiến tranh, để bảo toàn lực lượng cách
mạng, tiếp tục chiến đấu, phục vụ chiến đấu mà trước mắt là làm nhiệm vụ chi
viện cho đảo Cồn Cỏ... thì Chi bộ Đảng, Chi đoàn thanh niên lao động và nhân
dân ở đây không có cách nào khác là phải bám đất, bám vào lòng đất. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của Đồn Công an khu vực; tổ xung kích
được thành lập gồm 4 đảng viên (trẻ) và đoàn viên thanh niên trực tiếp đào sâu
xuống lòng đất...
Địa đạo Vịnh Mốc chính thức khởi công sau vài ngày đã
thu hút toàn dân trong thôn tham gia và đặc biệt được lực lượng vũ trang địa
phưong phối hợp tích cực. Kết quả bước đầu trong 3 tháng (1965), Vịnh Mốc đã
huy động được 18.000 ngày công lao động, đào và di chuyển trên 6.000m3
đất, tạo nên trong lòng đồi Vịnh Mốc một hệ thống hào ngầm chằng chịt với nhiều
cửa ra vào và cửa thông gió từ 4 phía chân đồi và trên đồi, bao quanh đồi có
đường giao thông hào dài 8.200m.
Địa đạo Vịnh Mốc là hình ảnh thu nhỏ của một thôn được
cấu trúc trong lòng đất, có độ sâu từ 20 đến 28m so với trần đồi, có trục hào
ngầm chính dài 768m, cao từ 1,5 đến 1,8m, rộng từ 1 đến 1,2m, từ trục chính toả
ra nhiều nhánh hào ngầm phụ thông với bên goài bằng một cửa ra, vào địa đạo.
Hai bên trục chính có khoét sâu vào đất thành từng ô, mỗi ô đủ cho một gia đình
trú ẩn, sinh hoạt.
Địa đạo Vịnh Mốc có 3 tầng: tầng 1 (kể từ dưới lên) là
nơi ở của nhân dân; tầng 2 là nơi đóng trụ sở của Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính,
Ban chỉ huy các lực lượng vũ trang địa phương; tầng 3 là kho hậu cần phục vụ
lực lượng vũ trang chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sẵn sàng chi viện lương thực,
vũ khí... cho đảo Cồn Cỏ và miền Nam.
Về vận tải đường bộ, do yêu cầu phục vụ chiến đấu và sản
xuất, phục vụ việc đi lại của nhân dân, nên số lượng xe và công nhân phục vụ Xí
nghiệp Công tư hợp doanh ôtô tăng nhanh. Đến cuối năm 1964, tổng số xe của Xí
nghiệp có 80 chiếc và trên 200 cán bộ, công nhân. Sau chiến dịch vận tải VT5,
tháng 02/1969, ông Lê Thanh Liêm, Chủ tịch uỷ ban Hành chính khu vực ký quyết
định chuyển Xí nghiệp Công tư hợp doanh ôtô thành Xí nghiệp Quốc doanh ôtô khu
vực Vĩnh Linh, đồng thời quyết định bổ nhiệm đồng chí Lê Xảo - Phó Trưởng ty
Giao thông (từ cuối năm 1965) trực tiếp làm Giám đốc Xí nghiệp. Qua quá trình
làm nhiệm vụ trong các năm chống chiến tranh phá hoại của bè lũ Mỹ - nguỵ, 12
chiếc đã bị chúng bắn hỏng nặng, số xe còn lại vẫn đảm đương được nhiệm vụ tiếp
nhận hàng của Trung ương chi viện cho địa phương, tổ chức vận chuyển lúa của
nhân dân làm nghĩa vụ ở các xã đưa về nhập kho; đồng thời làm nhiệm vụ vận
chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các mặt trận trên địa bàn khu vực
và mặt trận Trị - Thiên - Huế.
Đầu năm 1966, để tăng cường lực lượng vận chuyển theo đường
mòn nhỏ, tránh được các địa điểm thường bị máy bay Mỹ oanh tạc dữ dội, ngành
Giao thông vận tải khu vực đã thành lập Đội xe đạp thồ gồm 32 xe đạp Vĩnh Cửu
Trung Quốc do đồng chí Đoàn Toàn làm đội trưởng.
Mùa khô 1866 - 1967, địch mở chiến dịch nhằm ngăn chặn
sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
Trước âm mưu mới của đế quốc Mỹ, Trung ương Đảng đã có
chủ trương bảo đảm an toàn cho lực lượng không trực tiếp chiến đấu, giảm mật độ
dân cư trong khu vực có chiến sự ác liệt... Từ tháng 8/1966, tổ chức sơ tán trẻ
em, người già của Vĩnh Linh ra các tỉnh phía Bắc. Thực hiện chủ trương đó,
ngành Giao thông vận tải khu vực Vĩnh Linh mở Chiến dịch vận tải K8, sơ tán 3
vạn cháu nhỏ từ 7 đến 15 tuổi ra các tỉnh: Thái Bình, Ninh Bình, Nam Hà, Thanh
Hoá. Theo kế hoạch, tất cả các xã lập danh sách các cháu và đưa các cháu đến
tập trung theo một địa điểm (bí mật) đã quy định. Từ đó, ngành Giao thông vận
tải đưa các cháu ra Bắc theo từng chuyến một. Từ Vĩnh Linh ra Bắc Quảng Bình
được sự phối hợp của Ty Giao thông vận tải Quảng Bình, đoạn đường khu vực Vĩnh
Linh - Bắc Quảng Bình được chia thành 3 cung, 4 trạm:
- Cung 1: Từ Vĩnh Linh ôtô chuyển các cháu ra trạm Võ
Xá - Nam Quán Hàu; sáng hôm sau đưa các cháu đi men sông Nhật Lệ về xã Bảo Ninh
ăn nghỉ ở trạm. Tiếp đến dẫn các cháu dọc bờ sông đến đò Mẹ Suốt, vượt sông
Nhật Lệ qua Phú Hải, vòng lên Cộn.
- Cung 2: Từ Cộn, ôtô đưa các cháu qua đường Ba Trại
đến Mỹ Trạch ăn nghỉ. Hôm sau vượt sông Gianh sang Minh - Lệ. Từ đó các cháu đi
bộ 10km lên Quảng Trung, vượt qua bến đò xã Quảng Trường.
- Cung 3: Từ Quảng Trường - bắc sông Gianh ôtô tiếp tục
chuyển theo đường 22B ra Kỳ Anh - Hà Tĩnh. Từ Kỳ Anh, ôtô chuyển các cháu ra
cầu Bùng - Nghệ An. Từ đó, xe Trung ương chuyển các cháu ra các tỉnh phía Bắc.
Đến tỉnh nào, tỉnh đó phân bổ các cháu về từng huyện và phân công từng gia đình
nhận các cháu về nuôi dưỡng, học hành.
Dưới sự chỉ đạo của Khu uỷ khi IV, Đảng ủ và Uỷ ban
Hành chính khu vực Vĩnh Linh lãnh đạo và chỉ đạo lực lượng vũ trang sẵn sàng
chiến đấu, tổ chức bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương... diễn tập tác chiến
phòng thủ chống địch tập kích bằng đường bộ, đường biển, đường không khu vực
Vĩnh Linh - Nam khu IV. Mặt khác, thực hiện chủ trương của Trung ương, rà soát
lại lực lượng, tiếp tục sơ tán thêm một số dân ở địa bàn khu vực Vĩnh Linh ra
một số tỉnh phía Bắc gọi là kế hoạch K10. Bắt đầu từ tháng 11/1967, chỉ sau một
thời gian ngắn, Ty Giao thông Vĩnh Linh đã tập trung mọi phương tiện đưa được
22.137 người sơ tán ra các huyện Thạch Hà, Can Lộc - Hà Tĩnh và Tân Kỳ - Nghệ
An.
Trong các đợt vận chuyển bằng ôtô phục vụ K8, K10, tiêu
biểu có lái xe Trần Chí Thành. Anh Thành lái chiếc xe Mônô mang biển số 857 đã
làm tốt nhiệm vụ được giao trong hoàn cảnh bị địch tập trung lực lượng phi pháo
oanh kích dữ dội trên khắp các tuyến đường thuộc địa phận khu vực Vĩnh Linh -
Quảng Bình. Anh Thành đã lập được nhiều thành tích xuất sắc, ở đây xin nêu một
vài dẫn chứng: trong Chiến dịch vận chuyển K8 có đêm gặp lúc địch thả pháo sáng
để tìm mục tiêu, để bảo vệ đoàn xe 20 chiếc chở các cháu, anh Thành đã có sáng
kiến dẫn các cháu trên xe của mình vào giấu trong lô cốt, rồi anh bật đèn pha
cho xe chạy theo một tuyến đường khác đánh lạc hướng máy bay địch. Một lần
khác, trên đường từ Đồng Hới vào khu vực Vĩnh Linh, gặp đoàn xe quân sự gồm 7
chiếc đang mắc lầy ở đoạn đường ngang qua xã Võ Ninh - Lệ Ninh - Quảng Bình,
lúc này đã quá nửa đêm, anh em bộ đội ai cũng lo... Thấy vậy, anh Thành không
một chút do dự, đắn đo, với cương vị là tổ trưởng, anh ra lệnh huy động cả 8
chiếc xe do anh phụ trách, tập trung tìm mọi cảnh cứu đoàn xe quân sự lúc trời
vừa tảng sáng, tránh được các cuộc oanh ích của máy bay địch... Với những thành
tích xuất sắc đóm ngày 31/12/1973, anh Trần Chí Thành được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
Bất chấp máy bay B52 rải thảm, pháo chụp, pháo bầy đủ
loại, đủ cỡ từ bờ Nam sông Bến Hải bắn ra, từ ngoài biển bắn vào, nhân dân khu
vực Vĩnh Linh vẫn vững vàng bám trụ, sản xuất và chiến đấu. Các xã bờ bắc Bến
Hải chèo thuyền đưa bộ đội vượt sông Bến Hải vào đường 9 chiến đấu. Đặc biệt ở
bến đò Tùng Luật do một đại đội dân công đảm nhiệm, có một số cán bộ giao thông
vận tải làm nòng cốt, âm thầm lặng lẽ, người này ngã, người khác thay choè,
giành giật thời gian với máy bay, pháo sáng, bom đạn của địch, đã chuyển 1.382.000
lượt bộ đội, dân quân, dân công hoả tuyến vào chiến đấu ở chiến trường mặt trận
đường 9 - Khe Sanh trong xuân hè 1968, đồng thời chuyển 130.000 thương binh từ
chiến trường miền Nam ra miền Bắc.
Cùng thời gian này, không quân và hải quân Mỹ tập trung
đánh phá đảo Cồn Cỏ. Ngày 03/5/1968, các chiến sĩ đảo Cồn Cỏ đã bắn hạ 4 chiếc
máy bay.
Thi đua với Cồn Cỏ, ngày 05/8/1968, quân dân khu vực
Vĩnh Linh bắn rơi 2 chiếc F4 của Giặc Mỹ, trong đó có chiếc thứ 200 của địa
phương.
Thắng lợi liên tiếp đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư khen và tặng 2 câu thơ:
“Đánh cho giặc Mỹ
tan tành,
Năm châu khen
ngợi Vĩnh Linh anh hùng”.
Nhìn chung, những năm chống chiến tranh phá hoại lần
thứ nhất, mặc dù địch đánh phá, phong toả, ngăn chặn gắt gao bằng nhiều thủ
đoạn, bằng nhiều loại vũ khó, bom đạn với cường độ, quy mô ngày càng ác liệt,
ngày càng mở rộng. Bên cạnh hệ thống giao thông huyết mạch sẵn có, khu vực Vĩnh
Linh đã mở thêm nhiều tuyến đường, hình thành thêm bến vượt, cầu, phà dự bị cải
tạo, sửa chữa và nâng cấp hàng trăm kilômét đường giao thông nông thôn, xoá dần
thế “độc tuyến”, “độc bến”. “Đánh địch mà
đi mở đường mà tiến”. Được sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân
dân Việt Nam, các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn khu vực đã tích cực
và chủ động tham gia công tác bảo đảm giao thông, sử dụng khả năng phòng không
và công binh để bảo vệ bằng được các tuyến giao thông chiến lược... Tất cả các
lực lượng công binh, cao xạ, vận tải, thanh niên xung phong, thông tin, các
binh trạm, kho tàng đều lấy việc vận chuyển hàng hoá và bảo đảm hành quân làm
nhiệm vụ trọng tâm, đêm ngày bám đường, bám trận địa bền bỉ, không quản ngại hy
sinh, liên tiếp mở các chiến dịch vận chuyển nhằm đáp ứng kịp thời đòi hỏi ngày
càng tăng của các chiến trường...
Về địch, thấy bại nặng nề ở cả hai miền Nam -
Bắc, nhất là trong Xuân Mậu Thân. Ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ Giôn Xơn buộc
phải tuyên bố “Ném bom hạn chế” miền
Bắc và chấp nhận thương lượng với Chính phủ ta tại Pari. Đây là một bước “xuống thang” của Mỹ trong cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc, đồng thời thực hiện âm mưu mới nhằm tập trung lực
lượng đánh phá ác liệt hệ thống giao thông nam khu IV, ngăn chặn chi viện từ
miền Bắc vào miền Nam, giành thế mạnh trong đàm phán.
Ngày 03/11/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào
và chiến sĩ cả nước, khẳng định nhiệm vụ của toàn dân ta lúc này là phải nâng
cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, tiến tới hoà bình thốnh nhất Tổ quốc: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục
chiến đấu quét sạch nó đi”.
Cuối tháng 10/1968, Bộ Giao thông vận tải truyền đạt
chủ trương của Trung ương và phổ biến kế hoạch về việc thực hiện một chiến dịch
vận tải lớn từ tháng 11/1968 đến tháng 01/1969, lấy tên là “kế hoạch vận tải VT5”.
Kế hoạch VT5 sẽ đưa vào Quảng Bình 12 vạn tấn hàng hoá
để chuyển tiếp vào chiến trường.
Phần khu vực Vĩnh Linh phải nhận một vạn tấn, bao gồm
súng đạn, gạo, thực phẩm, thuốc men...
Suốt từ sông Gianh, Quán Hàu, đến Lệ Thuỷ, vượt Dốc Sỏi
vào Vĩnh Linh phải đặt trên 10 trạm chuyển tiếp vừa cơ giới, vừa thô sơ. Bất
chấp B52 rải thảm, pháo chụp, thuyền vẫn đưa được hàng đến đích, đưa bộ đội
vượt sông vào chiến trường.
Dân quân các xã vùng biển tổ chức các đội tình nguyện
giỏi bơi lặn chi viện cho Cồn Cỏ, giữ trọn lời thề “Vĩnh Linh còn, Cồn Cỏ còn”.
Vừa chiến đấu bảo vệ quê hương, chi viện tiền tuyến,
vừa củng cố xây dựng lực lượng, hàng ngàn nam nữ thanh niên khu vực Vĩnh Linh
đã dũng cảm xông vào công việc vận chuyển, tiếp lương tải đạn không kể giờ
giấc, nguy hiểm, có đêm huy động 1.200 dân quân vận chuyển hoả tiễn A12 từ Vĩnh
Phú vào tận Cửa Việt kịp cho bộ đội đánh tàu địch.
Năm 1969, toàn khu vực đã huy động 10.247 ngày công đi
phục vụ tiền tuyến. Các bến đò dọc sông Bến Hải tiếp tục làm nhiệm vụ đưa bộ
đội ta từ Bắc vào Nam, tiếp
nhận thương bệnh binh từ bờ Nam
đưa ra bờ Bắc. Toàn khu vực đã tu sửa 310km hào giao thông, làm mới thêm 20km
giao thông hào...
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, đây là
một tổn thất vô cùng to lớn của cả dân tộc ta. Người đã để lại Di chúc thiêng
liêng, dặn lại đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng
lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải chút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam
Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Biến đau thương thành hành động cách mạng, ngành Giao
thông vận tải cùng với quân dân trong khu vực và cả nước quyết thực hiện bằng
được Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.
Trung ương nhận định: “Từ đây Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất và cùng với
bạn nhất trí xác định vị trí mới của từng chiến trường trong cuộc chiến đấu
chống kẻ thù chug của 3 nước Đông Dương lúc này là đế quốc Mỹ xâm lược”.
Ở khu vực Vĩnh Linh, địch cho máy bay trinh sát và bắn
phá miền Tây và dọc tuyến, nhưng không ồ ạt như trước. Tận dụng thời gian có sự
hoà hoàn, giao thông vận tải tập trung sửa chữa cầu đường, phương tiện, “đường 16 được mở rộng kéo dài vào tận Bắc
đường 9”.
Đầu năm 1971, Mỹ - nguỵ mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” tiến công lớn ra đường 9 -
Nam Lào, hòng đánh chiếm SêPôn phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc -
Nam của ta, chia cắt 3 nước Đông Dương.
Khu vực Vĩnh Linh và nam Quảng Bình là địa bàn tập kết
lực lượng bộ đội chủ lực, phương tệin vật chất kỹ thuật, là nơi xuất phát tiến
công địch tại đường 9 - Nam Lào. Với tinh thần “Chiến trường cần gì, hậu phương sẵn sàng đáp ứng”. Lực lượng thanh
niên, nông dân đóng góp hàng vạn ngày công phục vụ chiến đấu, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các đơn vị bước vào chiến dịch.
Ta đã chuẩn bị tốt và tiến hành thắng lợi chiến dịch
phản công có ý nghĩa chiến lược đường 9 - Nam Lào, đánh bại quân chủ lực nguỵ
có sự yểm trợ của hoả lực Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của quân nguỵ
trong chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh”. “Chiến dịch đường 9 - Nam
Lào của ta đã chấm dứt ý đồ tiến công - phản kích đánh ra vòng ngoài bằng các
cuộc hành quân lớn của Mỹ nguỵ trên chiến trường 3 nước Đông Dương”.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Quân khu uỷ
Quân khu IV 11/02/1972, ngày 27/3/1972, Thường vụ Đảng uỷ khu vực Vĩnh Linh họp
bất thường, ra Nghị quyết về một số nhiệm vụ đột xuất.
Sau 5 ngày chiến đấu liên tục, bắt đầu lúc 11 giờ 30
phút gày 30/3/1972 quân dân Quảng Trị ở 2 khu vực nam, bắc sông Bến Hải phối
hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực thực hiện “tiến
công, nổi dậy” phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9 - Bắc Quảng Trị, giải phóng
hoàn toàn vùng Gio - Cam.
Vui mừng trước thắng lợi to lớn đó, khu vực Vĩnh Linh
huy động ngay một lúc 8.000 dân công ngày đêm bắc cầu phao qua sông Bến Hải,
thông đường quốc lộ 1A từ Bắc vào tận “ngã
tư Sòng” - Cam Lộ, chuẩn bị bến vượt, bảo đảm cho xe pháo của ta kịp chuyển
lên “phía trước”; đồng thời huy động
lực lượng giải quyết tốt khâu hậu cần cho các lực lượng tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu, đón nhận, chăm sóc thương binh, thu dụng tù binh, hàng
binh...
Trước đòn tiến công mãnh liệt và bất ngờ của ta, Mỹ -
nguỵ lúng túng, vội vàng bỏ tuyến phòng ngự bên ngoài, co về phòng thủ tuyến
trong.
Mỹ phải bị động dùng không quân, hải quân trở lại đánh
phá quyết liệt cả hai miền Nam
và Bắc.
Tính đến ngày 13/04/1972, không quân Mỹ - nguỵ đã xâm
phạm vùng trời khu vực 245 lần, ném 172 quả bom, bắn hàng loạt đạn 20 ly, tên
lửa xuống các thôn xóm. Pháo ở Hạm đội 7 bắn vào khu vực Vĩnh Linh 2.604 quả
loại 127 lyđến 203 ly. Với kỹ thuật dùng tia la de điều khiển bom và tên lửa,
máy bay giặc Mỹ đã phá huy toàn bộ cầu, chống và các mục tiêu khác trên khu vực
Vĩnh Linh.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Đảng bộ khu
vực, đảng viên, đoàn viên, công nhân viên chức, các lực lượng vũ trang ngày đêm
bám sát các mục tiêu, phục vụ chiến đầu và tham gia chiến đấu trong cuộc tiến
công chiến lược 1972 ở chiến trường, góp phần giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng
Trị vào ngày 01/5/1972.
Với những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam
và đặc biệt ở Quảng Trị, chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ có nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.
Trước tình hình nguy ngập, đế quốc Mỹ đã sử dụng lực
lượng lớn không quân, hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và gây lại cuộc chiến
tranh phá hoại với quy mô rộng và bằng phương tiện hiện đại nhất đối với miền
Bắc nước ta. Khu vực Vĩnh Linh là một trong các trọng điểm đánh phá ác liệt của
đế quốc Mỹ.
Trong đợt định tập trung lực lượng phản kích, tái chiếm
thị xã Quảng Trị, khu vực Vĩnh Linh đã tổ chức đón tiếp trên 5 vạn đồng bào
huyện Triệu Phong ra sơ tán và một số cơ quan, ban ngành của tỉnh Quảng Trị dời
ra đóng ở Vĩnh Nam.
Từ giữa năm 1972, một lần nữa đọ sức với cuộc chiến tranh
phá hoại có tính chất huỷ diệt của đế quốc Mỹ, nhưng quân dân khu vực Vĩnh Linh
vẫn bám trụ vững chắc, huy động đến mức cao nhất sức người, sức của phục vụ đắc
lực sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, giao thông vận tải bảo đảm thông
suốt trong mọi tình huống...
Sau Hiệp định Pari ký kết, ngày 31/01/1973, khu vực
Vĩnh Linh tổ chức cuộc mít tinh lớn tại thị trấn Hồ Xá để chào mừng thắng lợi,
hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng 28/01/1973.
Ngày 15/02/1973, Đảng uỷ khu vực họp, ra Nghị quyết về
nhiệm vụ trước mắt, trong đó có đoạn nêu rõ: “Quyết tâm chung của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân khu vực là
tiếp tục chuẩn bị thế trận, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn ngoan cố,
liều lĩnh của Mỹ - nguỵ, bảo vệ tốt địa bàn, kho tàng, tính mạng và tài sản của
nhân dân. Làm tốt công tác giao thông vận tải, phục vụ kịp thời tiền tuyến”.
Đảng bộ và nhân dân khu vực Vĩnh Linh tiếp tục vượt qua
khó khăn, khôi phục, phát triển kinh tế, làm tốt nghĩa vụ hậu phương trực tiếp
của chiến trường Quảng Trị, được sự hỗ trợ của Bộ Giao thông vận tải, Ty giao
thông Vĩnh Linh đã đưa hơn 22.000 đồng bào sơ tán ra Tân Kỳ - Nghệ An và trên 4
vạn học sinhK8 lầnlượt trở về xây dựng lại quê hương. Trong hai năm 1974 -
1975, quân và dân khu vực Vĩnh Linh góp phần tích cực của mình cùng với các địa
phương khác như Quảng Bình, Hà Tĩnh... đã hoàn thành và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ bảo đảm giao thông, vận chuểyn hàng hoá phục vụ chiến dịch mùa xuân
1975 giải phóng phần đất còn lại của Quảng Trị, Thừa Thiên, tiếp đến là chiến
dịch hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975.
B. QUẢNG TRỊ
I. GIAI
ĐOẠN TỪ CUỐI 1954 ĐẾN ĐẦU 1965
Ngày 22/7/1954, một ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ ký
kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng và Chính phủ gửi đến toàn thể đồng bào,
quân đội và cán bộ trong cả nước lời kêu gọi:
“Hiệp định
Giơnevơ là kết quả của 8, 9 năm kháng chiến cực kỳ anh dũng của nhân dân ta từ
Bắc đến Nam.
Do việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, từ nay cách mạng nước ta chuyển sang một giai
đoạn mới, giai đoạn đấu tranh để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và
dân chủ trong cả nước”.
Người kêu gọi tất cả mọi người Việt Mam yêu nước, không
phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến, hãy
thật thà cộng tác, vì dân vì nước mà phấn đấu để thực hiện hoà bình thống nhất,
độc lập dân chủ trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
Cùng với toàn Đảng và toàn dân, cán bộ công nhân viên
ngành Giao thông vận tải - Bưu điện Quảng Trị đã tổ chức học tập lời kêu gọi
của Hồ Chủ Tịch, quyết biến những lời căn dặn của Người tàhnh sức mạnh đấu
tranh chống bè lũ Mỹ - Diệm.
Ngày 8/8/1954, Hội đồng an ninh Mỹ do Tổng thống
Aixenhao chủ trì đã chính thức quyết định thay Pháp xâm lược Việt Nam.
Mỹ trực tiếp xâm lược. Miền Nam Việt Nam từ thuộc địa của Pháp trở thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Trong bối cảnh đất nước bị chia cát, ngành Giao thông
vận tải cũng phải thích ứng với tình hình, một mặt phải đấu tranh với địch, duy
trì mạch máu giao thông với khu vực Vĩnh Linh, miền Bắc xã hội chủ nghĩa, mặt
khác phải nhanh chóng tìm biện pháp để từng bước xây dựng mạng lưới đường giây
giao thông liên lạc ngay trong lòng địch để đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong
giai đoạn mới.
Sau khi tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết Hội ngjhị
lần thứ 6 của Trung ương Đảng khoá 2, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã chọn một số cán bộ
kiên trung (trong đó có cán bộ giao thông, bưu điện) ở lại bám trụ trên địa bàn
hoạt động cách mạng. Bộ phận giao lưu gồm 20 cán bộ do đồng chí Ngô Trọng Thuỷ
phụ trách, chia làm ba tiểu tổ: một tiểu tổ phục vụ Ban cán sự Đảng Triệu Hải,
tiếp tục duy trì liên lạc với giao bưu huyện Phong Điền - Thừa Thiên do đồng
chí Phan Cảnh Tám phụ trách; một tiểu tổ phục vụ Ban cán sự Đảng Gio - Cam,
trực tiếp nhận và chuyển tài liệu khu vực Vĩnh Linh, do đồng chí Lê Văn Kháng
(Lô) phụ trách; tiểu tổ trung tâm luôn luôn di chuyển theo Văn phòng Tỉnh uỷ do
đồng chí Ngô Trọng Thuỷ phụ trách, với nhiệm vụ trực tiếp điều hành hai tiểu tổ
phục vụ ở các địa bàn phía Nam và phía Bắc tỉnh nối thông liên lạc với tuyến
giao thông liên lạc Bắc - Nam. Bộ phận vô tuyến điện (VTĐ) ở lại phục vụ Tỉnh
uỷ do đồng chí Phan Chí (Lạc) làm trưởng Đài, đồng chí Trịnh Đình Khúc làm báo
vụ...
Nhiệm vụ cụ thể của mỗi cán bộ giao bưu lúc này là dẫn
đường, đưa cán bộ đi lại hoạt động, đưa các đồng chí trong Thường vụ Tỉnh uỷ,
Bí thư huyện, Thị uỷ ra khu uỷ khu IV tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng; chú trọng xây dựng cơ sở giao liên mới, trước hết là ở các địa
bàn đóng cơ quan Tỉnh uỷ, Huyện uỷ...; đồng thời phối hợp với an ninh bảo vệ
tìm các địa điểm dự phòng cho các cơ quan lãnh đạo khi chổ ở bị lộ...; tiếp tục
nhận công văn, báo chí của Đảng và Nhà nước từ miền Bắc chuyển vào, các tờ báo “Hoà bình”, “Yêu nước” - cơ quan tuyên
truyền của Đảng bộ Quảng Trị và chuyển đến tận cơ quan, đơn vị cơ sở, cán bộ
đảng viên đứng chân hoạt động ở các địa bàn trong tỉnh do đối phương kiểm soát.
Thời gian cuối 1954, đầu 1955, cơ quan Tỉnh uỷ đóng ở
phía tây Triệu Phong như Xóm Chuối, Teng Teng; Tháng 12/1955 xuất phát từ yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Tỉnh uỷ quyết định dời cơ quan về đóng ở đồng
bằng Triệu Phong như CK1 (các thôn Anh Kiệt) Anh Trú...), CK2 (các thôn Lập
Thạch, Vân An...), CK3 (các thôn Dương Xuân, Duy Phiên, Hà La...); CK4 (các
thôn Vĩnh Huề, Tường Vân...) để trực tiếp chỉ đạo phong trào đồng bằng - đô thị
đấu tranh đòi đối phương thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi mở hiệp thương giữa
hai miền, tiến tới tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước.
Đầu năm 1955, Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị họp, khẳng
định: Phải đảm bảo giao thông liên lạc trong mọi tình huống, tổ chức các tuyến
liên lạc hợp pháp nối liền giữa đồng bằng ven biển với miền núi, giữa Quảng trị
và khu vực Vĩnh Linh...Thường vụ Tỉnh uỷ phân công đồng chí Nguyễn Văn Tào
(Khởi) - Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ chịu trách nhiệm tổ chức các tuyến giao liên
vùng đồng bằng ven biển. Tuyến ven biển từ Cửa Việt ra Cửa Tùng, tổ giao thông
liên lạc này lần đầu tiên gồm 3 người do đồng chí Lê Phú, Bí thư Chi bộ An Lộc
làm tổ trưởng. Tổ đường dây của đồng chí Lê Phú phục vụ từ năm 1955 đến 1956,
đã giải quyết tốt nhiều việc đột xuất hệ trọng như vận chuyển tài liệu, đưa đón
cán bộ Trị - Thiên...ra Bắc, vào Nam hoạt động. tuyến đường dây hợp pháp qua
cầu Hiền Lương do chị Lê Thị Miên, anh Lê Nuôi...đảm nhiệm. Ở nội thị xã Quảng
trị cũng hình thành được đường dây liên lạc hợp pháp do đồng chí Hiền (an ninh)
phụ trách...
Ở núi, sau khi thực hiện xong việc chuyển quân, tập
kết, cơ quan Huyện uỷ Hướng Hoá rút vào hoạt động bí mật. hàng ngày các đồng
chí trong các bộ phận Nam, Bắc đường 9, phân công nhau có cán bộ giao liên dẫn
đường về bám các địa bàn vận động đồng bào, đẩy mạnh sản xuất, tổ chứuc các “già làng” đứng ra làm đại diện đấu
tranh với địch, hạn chế sự sùng sục của địch, bảo vệ và nuôi dưỡng được 256 cán
bộ của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trên đường ra Bắc bị kẹt lại ở địa bàn Hướng
Hoá gần một năm. Cũng trong năm 1955, cán bộ và nhân dân các dân tộc Việt Kiều,
Pacô còn làm tốt nhiệm vụ vận chuyển tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cơ quan
Tỉnh uỷ Savannakhet (Lào) đóng ở A - Vao trong suốt thời gian bị bọn phản động
Phu - My và Cà Tày (thân Mỹ) trở mặt phá bỏ hiệp định Gơnevơ, truy lùng, khủng
bố lực lượng Pha thét Lào.
Tuyến đường bộ miền núi - mạch máu giao thông liên lạc
giữa hai bờ Bắc - Nam
sông Bến Hải có lúc gặp khó khăn do đối phương phong toả. Để duy trì và phát triển
con đường đó, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã cử đồng chí Lê Hành - tỉnh uỷ viên phụ trách
cùng đồng chí Phan Du của khu vực Vĩnh Linh, dựa vào đồng bào Vân Kiều, bằng
cách “bản xỏi bản” nghĩa là từ bản
này tìm đường đến bản khác, một bản đặt một trạm có từ 2 đến 3 người thường
trực do nhân dân trong bản tự do cắt, cử người đứng ra thay nhau giúp đỡ cách
mạng. Khi có công văn, báo chí, hàng hoá... đến trạm, trạm cử người gùi đi
tiếp. Từ xã Tà Long - Nam đường 9 ra Tây khi vực Vĩnh Linh gồm các trạm: Ba
Nang - xã Tà Long, Cheng, Ly Tôn, Kê, Châu Rò, Xã Ruộng, Cơn Tăm, Bãi Hà.
Kết quả cuối nưam 1956, ở địa bàn Quảng trị, khu vực
Vĩnh Linh đã mở được hai tuyến đường dây mang tên Thống Nhất và Lam Sơn... Hai
đường dây này làm nhiệm vụ đưa cán bộ, hàng hoá từ Bắc vào, từ miền Nam ra...đ
ều do Ban C10 quản lý.
Tháng 10/1957, được sự đồng ý của Trung ương Đảng, Tỉnh
uỷ Quảng trị tổ chức Hội nghị tại nhà số 55, phố Hàng Chuối (Hà Nội). Hội nghị
vinh dự được đồng chí Lê Duẫn, Uỷ viên Bộ chính trị Trung ương Đảng công tác ở
Miền Nam vừa ra đến dự và
trực tiếp truyền đạt tinh thần và nội
dung bản Đề cương cách mạng miền Nam do đồng chí soạn thảo.
Để phục hồi phong trào cách mạng, tiếp tục đưa phong
trào cách mạng ở địa phương tiến lên, Hội nghị Tỉnh uỷ đề ra các nhiệm vụ,
trong đó nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa miền núi, đảm bảo an toàn tuyến hành lang
Bắc - Nam... Sau Hội nghị Tỉnh uỷ, các Huyện uỷ đều mở rộng Hội nghị nghiên
cứu, quán triệt “Đề cương cách mạng miền
Nam”, Nghị quyết Tỉnh uỷ (10/1957) nhằm đưa phong trào cách mạng miền Nam
vượt qua những khó khăn thử thách và tiến lên. Qua sinh hoạt quán triệt đã làm
cho mọi cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quảng trị nức lòng phấn khởi.
Việc móc nối lại cơ sở, phục hồi xây dựng lực lượng
cách mạng lúc này gặp vô vàn khó khăn gian khổ. Ngô Đình Diệm và bè lũ tay sai
đang ra sức đánh phá phong trào cách mạng khốc liệt hơn, tàn bạo hơn trước
chiến dịch “tố cộng” giai đoạn 3.
Phương châm của chúng là “dùng cộng diệt
cộng” “dùng dân phá dân”, “dùng dân
diệt cộng”...
Trước tình hình đó, cán bộ giao liên dẫn đường cho các
đồng chí trong cấp uỷ từ miền núi (khu căn cứ) về vùng giáp ranh, đồng bằng gặp
nhiều trắc trở. Đồng chí Trần Tiêu nguyên là cán bộ phụ trách nhà in của cơ
quan Tỉnh uỷ lúc đó kể lại: “Trong thời gian Mỹ - Diệm mở chiến dịch “tố cộng,
diệt cộng;, mỗi lần đi về đồng bằng, tôi giao liên phải trèo lên cây cao hoặc
mỏm đồi cao quan sát, định hướng, sau đó tụt xuống cứ theo hướng đã định tự mở
đường mà đi. Mỗi chuyến đi, về như vậy thường bị rách một cái quần dài, mà có
phải lần nào cũng trót lọt cả đâu. Có khi 5 lần, 7 lượt mới đạt được mục tiêu
của một chuyến đi. Bởi vì nhiều lần về đến rìa làng, chờ mãi cho đến canh hai,
canh ba mà không nhận được mật hiệu của cơ sở thì chúng tôi phải đành ôm bụng
đói mà chạy cho nhanh để kịp vượt qua các đồi trọc vùng giáp ranh trước khi
trời sáng. Giam khổ, vất vả đến thế nhưng chúng tôi vẫn kiên quyết bám cơ sở,
không bám cơ sở thì không có lương thực, thực phẩm, không có nguyên liệu giấy
mực để ra báo, ra bản tin. Máy in ngừng hoạt động”.
Ở miền núi Hướng Hoá, Mỹ - Diệm tích cực tổ chức lực lượng dân vệ, gom dân
vào “ấp chiến lược”, cho bọn tay sai
phản động thọc sâu vào các bản mà chúng cho và “vùng Việt Cộng” để khủng bố, bắt bớ, ngăn cản không cho đồng bào
các dân tộc ra đường 9 - Khe Sanh trao đổi hàng hoá.
Trước tình hình đó, đầu năm 1958, Huyện uỷ Hướng Hoá
triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng tại thôn Rờ - Reng , xã Ruộng. Hội nghị đề ra
nhiệm vụ: phải khéo tận dụng hết các khả năng đấu tranh công khai hợp pháp để
khôi phục, giữ vững các lợi ích sinh sống hàng ngày của đồng bào các dân tộc;
vặt khác phải ra sức xây dựng lực lượng hoạt động bí mật như tổ chức Đảng, Đoàn
Thanh niên Lao động Việt Nam, lực lượng nòng cốt trung kiên nằm trong quần
chúng, củng cố và phát triển mạng lưới giao thông liên lạc...
*
*
*
Đáp ứng
yêu cầu cách mạng miền Nam và đòi hỏi của lịch sử, ngày 13/01/1959, Ban chấp
hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 tại Hà Nội và ra Nghị quyết lịch
sử về cách mạng miền Nam.
Triển
khai Nghị quyết 15, Bộ Chính trị Trung ương Đảng giao cho Quân uỷ Trung ương
nghiên cứu tổ chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt mở tuyến giao liên và
vận tải đưa cán bộ, vũ khí và những hàng
hoá cần thiết vào miền Nam.
Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đây là mộ việc lớn
có ý nghĩa chiến lược, quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất
Tổ quốc”. Bộ Chính trị đề ra phương châm: “Mở đường và tổ chức vận tải từ miền Bắc vào miền Nam trong những năm đầu phải tuyệt
đối bí mật, an toàn”. Và giao cho Thượng tá Võ Bẩm có nhiệm vụ tổ chức lực
lượng mở đường vận tải vào miền Nam.
Cuộc họp
bí mật tại một địa điểm ở khu vực Vĩnh Linh do Thượng tá Võ Bẩm chủ trì gồm các
đồng chí: Nguyễn Quyết - Khu uỷ viên Khu uỷ V, Lê Hành - Tỉnh uỷ viên, Bí thư
Huyện uỷ Hướng Hoá đã bàn những vấn đề cụ thể về việc mở tuyến đường chiến lược
559. Tuyến đường này không dừng lại ở bờ
Bắc sông Bến Hải mà vượt qua đường 9, đi thẳng vào phía Nam. Để bảo đảm bí mật, phương châm
mở tuyến đường là phải “xuyên sơn” mà đi, không trùng với các lối mòn cũ. Cuộc
họp phân công đồng chí Lê Hành chịu trách nhiệm huy động lực lượng mở tuyến
đường qua địa bàn Hướng Hoá, tây Thừa Thiên; đồng chí Nguyễn Quyết chịu trách
nhiệm chuyển tiếp vào khu V.
Sau khi
thành lập Tiểu đoàn 301 của Đoàn 559 hành quân vào tập kết tại Khe Hó cách thị
trấn Hồ Xá 15km về phía tây, cách trục đường 15B 3km về phía Tây - bắc, là một
vùng đồi núi chập chùng, dày đặc cỏ hoang dại... xung quanh có khe suối bao
bọc. Từ địa bàn Khe Hó, Ban chỉ huy tiểu đoàn cùng với đồng chí Cương - Huyện
uỷ Hướng Hoá nghiên cứu địa hình, mở đường theo triền núi đông Trường Sơn và
quyết định địa điểm đặt trạm. Trạm này cách trạm kia khoảng một ngày đường đi
bộ, mỗi trạm biên chế một trung đội. Trạm đầu tiên được đặt ở Hàm Nghi một
trong những căn cứ chống Pháp trong phong trào Cần Vương vào cuối thế kỷ XIX; từ
nam sông Bến Hải đến bắc đường 9 có các trạm Bãi Hà, Cơn Tăm, Xã Ruộng... Các
trạm này do Đoàn 559 trực tiếp tổ chức, xây dựng. Từ nam đường 9 đến giáp giới
tỉnh Quảng Nam
- Đà Nẵng tổ chức công trường Lê Hồng Phong. Công trường này còn có tên thường
dùng là Đoàn Bắc Sơn. Đoàn Bắc Sơn có một số cán bộ chủ chốt như: Hồ Lôi, Hồ
Sâm, Hồ Bảy, Trần Quả... do đồng chí Lê Hành phụ trách. Dựa vào đồng bào các
dân tộc Vân Kiều, Pa Cô của huyện Hướng Hoá, Đoàn Bắc Sơn đã huy động được 400
con trâu, 500 nam nữ thanh niên tự nguyện thoát ly gia đình làm công tác vận
tải. Từ nam đường 9 vào Quảng Nam,
tổ chức thành 16 trạm. Hầu hết cán bộ phụ trách trạm đều là thanh niên dân tộc.
Đoàn Bắc Sơn tiếp nhận hàng hoá của Đoàn 559 do Thượng tá Võ Bẩm phụ trách tại
nam Hướng Hoá, rồi từ nam Hướng Hoá chuyển vào cung cấp cho mặt trận Trị -
Thiên, khu V. Đoàn Bắc Sơn hoạt động từ cuối năm 1959 đến năm 1963, cuối năm
1963 Đoàn Bắc Sơn chuyển giao toàn bộ nhiệm vụ vận tải cho Đoàn 559. Khu uỷ khu
5 điều động 2 đại đội vận tải: Bắc Sơn và Bình Sơn vào làm công tác vận tải ở
khu V.
Tuyến
giao thông vận tải 559 từ bờ nam sông Bến Hải vào miền Nam phải ngang qua vùng
địch kiểm soát với hàng loạt đồn bốt được canh phòng cẩn mật. Ngoài đồn bốt
canh gác, địch còn dùng xe cơ giới tuần tra thường xuyên trên đường 9... hoặc
tung quân lùng sục tìm dấu vết đi lại của ta ở các khu rừng năm hai bên đường.
Vì vậy,
để mở đường và tổ chức vận tải từ miền Bắc vào miền Nam lúc này ta phải tổ chức lực
lượng trinh sát bám chặt mọi hoạt động của địch, trước khi giao liên dẫn cán bộ
và các đoàn vận tải qua đường...
Để giữ
tuyệt đối bí mật, người đi trước phải cào lá rừng trên lối đi, người đi sau
phải khoả lá lấp lại như cũ. Phải xoá sạch vết chân trên từng hòn đá “mồ côi”
nổi trên mặt suối. Khi vượt qua sông Ba Lòng giao liên ta phải dùng thuyền
thúng, xuồng độc mộc, dùng chiếc “cầu dây
song” để đưa từng gùi hàng, từng người hành quân... Mỗi lần qua các điểm
vượt tại các cầu: Khe Xom, Cu Tiền, Xóm Ròn... trên đường 9 - đoạn từ Km41 đến
Km47 để tránh các đồn bốt và sự tuần tra của địch, giao liên ta phải bố trí
người gác, khi nhận được tín hiệu như “giật
giây”, bắn đá bằng “ná cao su”...
do người gác báo, giao liên mới dẫn cán bộ vượt qua... “Đi không dấu, nấu không khói, nói không nghe tiếng” là những quy định
mà mỗi cán bộ, chiến sĩ, công dân vận tải phải chấp hành nghiêm ngặt, không
được trái lệnh của cán bộ giao liên dẫn đường...
Vì sự
nghiệp giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam, cán bộ công nhân viên ngành
Giao thông vận tải - Bưu điện hoạt động ở bờ Nam sông Bên Hải trong chặt đường
đầu của cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chịu đựng, chống chọi
quyết liệt với mọi loại kẻ thù: biệt kích địch, thú dữ, muỗi, bệnh tật để
chuyển từng khẩu súng, viên đạn... cho chiến trường miền Nam, đưa gần 550 cán
bộ, chiến sĩ (tiếng riêng 6 tháng cuối năm 1959) từ miền Bắc vào nhận nhiệm vụ
ở Trị Thiên, khu V...
Trên cơ
sở quán triệt Nghị quyết 15 của BCH TW Đảng, Hội nghị Tỉnh uỷ đề ra hai chủ
trương lớn: xây dựng căn cứ miền núi và thành lập lực lượng vũ trang cách mạng.
Phục vụ
nhiệm vụ mới, đòi hỏi lực lượng giao bưu tỉnh phải được củng cố, tăng cường.
Sau Hội nghị Tỉnh uỷ, mỗi huyện trong tỉnh đều tuyển thêm người làm cán bộ giao
bưu và do một đồng chí Thường vụ Huyện uỷ hoặc Huệyn uỷ viên phụ trách. Tại
điểm vượt quốc lộ 9, ta thành lập bộ phận đạo lộ gồm 10 cán bộ chiến sĩ, với
nhiệm vụ nắm chắc tình hình địch trước khi đưa các đoàn cán bộ, vận tải hàng
hoá vượt qua đường. Tổ đạo lộ còn có nhiệm vụ tổ chức lực lượng xoi thêm đường
mới vượt qua đường 9, để khi đường vượt này bị lộ thì ta chủ động chuyển qua
đường khác ngay, bảo đảm thông đường trong mọi trường hợp. Tuyến giao thông
trên biển của tỉnh cũng được bổ sung gồm 14 người, chia làm 2 đội: Đội A do
đồng chí Võ Mnạh đội trưởng trực tiếp phụ trách, Đội B do đồng chí Lê Phú Bí
thư chi bộ phụ trách.
Tại cuộc
hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết 15 và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ
(5/1959) của ngành giao bưu tỉnh, đồng chí Trương Chí Bông, Bí thư Tỉnh uỷ đến
dự và phát biểu ý kiến, nhấn mạnh nhiệm vụ của ngành giao bưu trong giai đoạn
mới. Đồng chí chỉ rõ: người làm cán bộ giao bưu phải luôn luôn có tư tưởng chủ
động tiến công địch. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm giao thông liên lạc, dẫn đường cho
cán bộ, bộ đội, các đoàn dân công vận tải, các cán bộ giao bưu còn là người
luôn nắm chắc tình hình địch để có kế hoạch chủ động đối phó. Trương trường hợp
bị địch phục kích, tập kích, các đồng chí là người phải nổ súng đánh vào kẻ
thù, giải vây, bảo đảm an toàn cho các đoàn theo đường dây...
Đến cuối
năm 1960, một vùng miền núi rộng lớn của Quảng Trị gồm có 7 xã của huyện Xà
muồi, 3 xã của Nam Hướng Hoá, 5 xã của quận Ba Lòng và một số bản của xã Hải
Phúc - Hải Lăng được giải phóng - hình thành vùng căn cứ địa liên hoàn có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào cách mạng hai tỉnh: Quảng
Trị, Thừa Thiên.
Ngày
20/12/1960 “Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam”
được thành lập, các căn cứ địa cách mạng tại chỗ được khôi phục, mở rộng. Từ
miền Bắc, đường vận tải chiến lược vào Nam, đường bộ 559, đường biển 759 hình
thành và phát triển.
Nam, Bắc Hướng
Hoá được giải phóng, vùng căn cứ cách mạng của tỉnh Quảng Trị được mở rộng nối
liền với vùng giải phóng miền núi Thừa Thiên, khu V... thông với khu vực Vĩnh
Linh - miền Bắc xã hội chủ nghĩa và vùng giải phóng Hạ Lào, tạo thế đứng cho bộ
đội địa phương, bộ đội chủ lực của ta đánh địch ở đồng bằng, đồng thời lập cầu
nối giao lưu với miền Bắc, đảm bảo nhu
cầu vận tải ngày càng tăng từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền
Nam. Con đường bộ 559 từ Khe Hó khu vực Vĩnh Linh chạy theo dãy Trường Sơn
ngang qua địa bàn Hướng Hoá - Quảng Trị, đến tận các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, từ chỗ chỉ là những đường nhỏ hẹp dùng cho người đi bộ, mang gùi trên
lưng đã được bảo vệ, mở rộng... Con đường chiến lược đó ngày càng được phát
triển đúng như Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương (5/1959) đã ghi
rõ: “Con đường chi viện cho miền Nam, cho
bạn Lào, Campuchia, cơ bản nhất, chủ yếu nhất, có ý nghĩa chiến lược vô cùng
quan trọng trước mắt và lâu dài”.
Đại hội
đại biểu Đảng bộ Quảng Trị lần thứ V được triệu tập tại bản Tu Pông - Hướng
Hoá, khai mạc vào ngày 30/6/1961. Căn cứ vào tình hình đặc điểm của địa phương
và với tư tưởng chiến lược tiến công, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ mới:
Phát triển hướng tiến công từ rừng núi về nông thôn đồng bằng, đánh phá ấp
chiến lược, giành dân, giành quyền làm chủ, đưa phong trào cách mạng của địa
phương tiến kịp với phong trào khu V và toàn miền. Về chỉ đạo, nắm vững trọng
tâm chỉ đạo đồng bằng, nhưng phải hết sức coi trọng miền núi.
Đại hội
V đã thành công tốt đẹp, trong đó có sự đóng góp phục vụ của bộ phận giao bưu
như tìm địa điểm họp, đưa đón đại biểu, vận chuyển lương thực thực phẩm cung
cấp cho các đại biểu trong suốt thời gian dự đại hội... Ngay sau khi đại hội
kết thúc, bộ phận giao bưu lại tổ chức đưa các đại biểu trở về các địa bàn kịp
thời truyền đạt Nghị quyết của đại hội đến tận từng cơ sở, đảng viên.
Cùng
trong thời gian trên, bộ đội giải phóng của ta phối hợp với bộ đội Pha thét -
Lào mở chiến dịch Tà Khống, tiến công tuyến phòng thủ của quân nguỵ Lào dọc
đường 9, giải phóng khu vực từ Huội San đến Mường Pha Lan dài gần 100km nối
liền Trung Lào với Hạ Lào.
Chiến
dịch Tà Khống thắng lợi tạo điều kiện rất thuận lợi cho tuyến vận tải chiến
lược của đoàn 559 “lật cánh” từ đông
Trường Sơn sang tây Trường Sơn phát triển, mở đường thồ bằng xe đạp từ nam
đường 9 vào rừng thông tây Thừa Thiên.
Để tăng
thêm khối lượng hàng hoá vận tải vào chiến trường miền Nam, sau khi có sự thống
nhất phối hợp giữa Cục Hàng không Việt Nam với Đoàn 559, được sự đồng ý của
nước bạn Lào, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm ụ cho bộ đội công binh khôi phục, tu
sửa sân bay Tà Khống - Sê Pôn, đồng thời giao cho lực lượng không quân của ta
tổ chức vận tải bằng đường không từ hậu phương miền Bắc vào sân bay Tà Khống
góp phần lập chân hàng cho đoàn 559. Quân của Đoàn 559 dùng xe thồ chở vũ khí
từ Tà Khống vào La Lay, Mường - Nòng. Tỉnh chủ trương cho Ban giao bưu tỉnh huy
động dân công ở vùng núi theo đường dăy Bắc Sơn tiếp nhận hàng và vận chuyển
vào miền núi Thừa Thêin, Quảng Nam
- Đà Nẵng.
Cuộc
chiến đấu của ta ở miền Nam và việc mở đường vận chuyển từ Bắc vào Nam quan hệ
mật thiết với nhau, bè lũ - Mỹ - nguỵ “đánh
hơi” được, chúng cử một số tướng tá trong Bộ Chỉ huy quân sự ra Quảng Trị
nghiên cứu và quyết định mửo các trận càn lớn lên miền núi Hướng Hoá. Địch mở
chiến dịch mang tên “Lê Lợi” kéo dài
một tháng (từ tháng 11 đến tháng 11/1962) và chiến dịch Phượng Hoàng.
Các trận
càn của địch tuy có gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế, đừoi sống của nhân dân ở một số nơi, song về cơ bản các mục
tiêu của chúng đặt ra đều không đạt được. Quân và dân ta ở miền núi với tinh
thần vừa xây dựng khu căn cứ, vừa tổ chức đánh địch, gây cho chúng nhiều thiệt
hại, cuối cùng vẫn bảo vệ được khu căn cứ. ngoài việc duy trì được 500 thanh
niên tham gia đội vận chuyển liên tỉnh Trị - Thiên, Hướng Hoá còn huy động hàng
ngàn lao động thay nhau phục vụ tuyến đường 559 với thời gian kéo dài từ 3 đến
6 tháng...
Đi đôi
với càn quét, điều chỉnh quân chiếm đóng ở các vị trí then chốt: La Vang, Đông
Hà, Đường 9... Mỹ - Diệm tiến hành xây dựng con đường quân sự chạy song song
với quốc lộ 1A từ giới tuyến vào Mỹ Chánh, đồng thời tu sửa, nâng cấp các con
đường phục vụ cho quân sự như: đường từ Đại Áng lên Trạng Tre, Cùa; đường từ An
Đôn đi Cùa; đường từ Tích Tường lên Trái; đường từ La Vang lên Phước Môn, Khe
Hói; đường từ Diên Sanh đi Trường Phước lên Hòn Linh - Bợc Lở, Bến Mưng; đường
từ Bến Đá lên Khe Mương giáo đường Ba Đa; đường từ Mỹ Chánh lên Tân Lương;
đường Vĩnh Thuỵ; đường từ Cùa sang Ba Lòng; xây cầu Trí Bưu - Quy Thiện ngang
qua sông Nùng; ở Thượng Xá, chúngc ho xây Cầu Rôộc ngang qua sông Nhùng, xây
dựng hệ thống cầu cống dọc trục đường 9 một cách kiên cố hơn trước.
Trung
ương Cục miền Nam quyết định
phát động trên toàn miền Nam
phong trào “Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập
công”. Hưởng ứng phong trào đó, đêm 8 rạng ngày 9/02/1964, được sự phối hợp
của một đơn vị đặc công Quân khu, C55 - Đại đội bộ đội địa phương tỉnh đã đột
nhập vào quận lỵ Ba Lòng và chỉ sau 25 phút quân ta đã tiêu diệt và làm chủ
hoàn toàn quận lỵ.
Bản tin
chiến thắng quận lỵ Ba Lòng được cán bộ giao liên tiếp nhận và cấp tốc chuyển
đến các địa bàn, đơn vị cơ sở trong tỉnh, tạo nên không khí sôi nổi về chiến
thắng Ba Lòng khắp mọi nơi.
Được tin
Ba Lòng giải phóng, nhiều người ở đồng bằng, đô thị, kể cả một số người ở thành
phố Huế cũng tìm đến vùng căn cứ của ta, nhờ cán bộ giao thông liên lạc tổ chức
cho lên Ba Lòng để tìm gặp người thân hoặc nhờ cán bộ mặt trận chuyển hộ thư,
lời nhắn tin cho chồng con “tập kết”.
Luật cấm
đi rừng, lên núi của Mỹ - nguỵ không còn hiệu lực. Ngư dân vùng biển, nông dân
vùng ruộng rủ nhau có giao liên cơ sở dẫn đường lên rừng lấy mây, lá, đốn củi
rất đông với một nguyện vọng thầm kín là tìm gặp người thân đi tập kết, tìm
hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và Mặt trận, chuẩn bị cho con em của mình
tham gia kháng chiến.
Bằng con
đường đi lại hợp pháp, đồng bào ở vùng đồng bằng đã cung cấp cho cán bộ, bộ đội
giải phóng về tình hình địch, lai lịch của một số tên ác ôn. Mỗi lần lên rừng,
đồng bào lại mang lương thực, thực phẩm tiếp tế cho cán bộ, bộ đội của ta hiện
đang gặp khó khăn, thiếu thốn.
Tháng
12/1963 BCH TW Đảng mở Hội nghị lần thứ 9. Để tiếp thu và thực hiện quyết định
trên, Hội nghị Tỉnh uỷ 4/1964 tại Ro Ró, - Hướng Hoá quyết định phát động phong
trào đồng khởi nông thôn đồng bằng. Hội nghị coi việc khẩn trương chuẩn bị thực
lực cách mạng phát động đồng khưỏi nông thôn đồng bằng là nhiệm vụ trung tâm
cấp bách và sống còn của toàn Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh.
Ban Giao
- Bưu Quảng Trị được thành lập từ năm 1962. Từ đó đến mùa xuân 1964, dưới sự
lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, Ban Giao - Bưu đã hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ được giao. Được khu vực Vĩnh Linh và tỉnh Quảng Bình chi vệin
50 cán bộ giao thông, bưu điện, đưa tổng số cán bộ, công nhân viên của Ban lên
180 người (163 nam, 17 nữ) trong đó có 37 anh chị em người dân tộc Vân Kiều,
Pacô. Tất cả mọi n gười trong Ban đều hồ hỡi, phấn khởi, động viên nhau vượt
qua khó khăn, ác liệt, một lòng phục vụ cuộc đồng khởi nông thôn đồng bằng.
Cuộc
đồng khởi bắt đầu từ đêm mồng 05/7/1964 nổ ra tại Cùa (Cam Lộ) và sau đó liên
tiếp nổ ra ở nhiều nơi, đưa vùng giải phóng nông thôn đồng bằng áp sát thị xã
tỉnh lỵ. Ngày 10/02/1965, ngày nổi dậy của đồng bào các thôn: Kinh Môn, Hải Cụ,
Giang Phao (Gio Linh), cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được
kéo lên tại đồn Giang Phao, đánh dấu vùng giải phóng miền Nam đã nối liền với
miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Về tổ
chức, giữa tháng 12/1964, Ban Giao - Bưu được chuyển thành ban Giao - Bưu - Vận
tỉnh Quảng Trị, đồng chí Hùng Sơn (tức Võ Văn Ấp) được Tỉnh uỷ cử làm Trưởng
ban,d dồng chí Trường Thọ (tức Đào Bá Nghĩa) được cử làm Phó ban. Trong Ban còn
có một số cốt cán như: Nguyễn Kiểm, Nguyễn Thanh Phiến, Dương Thanh, Đoàn Thế
Ẩn, Nguyễn Phụng, Nguyễn Cẩm, Hồ Thái, Nguyễn Khánh (Lô), Trần Hữu Đinh v.v..
Ban Giao - Bưu - Vận Quảng Trị đã tổ chức tuyến vận tải tiếp nhận hàng của Ban
Thống nhất Trung ương chi viện cho Trị - Thiên. Tuyến vận tải này được tổ chức
thành 4 trạm: B4, B3, B2, B1. Mỗi trạm đều có kho hậu cần và ban chỉ huy điều
hành vận tải. B4 đóng tại Cù Bai do đồng chí Phiếu làm Trạm trưởng, B3 đóng tại
mỗi địa điểm ở thượng nguồn sông Cam Lộ do đồng chí Sáng làm Trạm trưởng, B2
đóng tại Khe Đoác do đồng chí Khánh làm Trạm trưởng, B1 do đồng chí Cát làm
Trạm trưởng. Lực lượng vận tải ở 3 trạm B4, B3, B2 được điều động từ 4 đại đội
dân công hoả tuyến của tỉnh Quảng Bình và một trung đội thanh niên xung phong
của khu vực Vĩnh Linh. Ngoài việc đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam và
ngược lại, bình quân mỗi ngày mỗi trạm còn phải vận chuyển 1,5 tấn hàng từ trạm
của mình vào trạm kế tiếp.
Điểm
vượt của các đoàn qua đường 9 được Đội đạo lộ do đồng chí Hoàng Nhân làm Đội
trưởng thường được tổ chức vào đoạn đường giữa Km37 và Km38 - đường 9 vào lúc
1-2 giờ sáng. Các đoàn sau khi vượt qua đường 9, tiếp tục hành quân ngang qua
khu dinh điền Đùng Đồng rồi xuống thuyền xuôi theo dòng sông Ba Lòng. Số thuyền
nào chở hàng cho Quảng Trị thì rẽ vào Khe
Su, số thuyền nào giao hàng cho Thừa Thiên thì chuyển vào Ba Đa.
Bọn địch
đóng ở Kho Muối Km41 phát hiện được dấu vết của ta qua các điểm vượt, chúng cho
trung đội tham báo tổ chức phục kích.. Trước tình hình đó, Đội đạo lộ dựa vào
số đồng bào làm ăn sinh sống hai bên đường 9 giúp đỡ, cảnh giới, bảo vệ. Nhờ
vậy, các đoàn của ta vượt qua đường 9 đều an toàn. Giữa năm 1965, khi địch tăng
cường thêm lực lượng cho đồn 41, Đội đạo lộ chuyển các điểm vượt lên chân động
Ca Lu, luồn dưới gầm cầu Ba Ngoặt, vượt sông Đakrông, đến bản Mò Ó, chuyển hàng
lên núi cất giấu, phân phát cho các đơn vị...
Tính từ
cuối năm 1964 đến tháng 8/1965, tuyến vận tải này đã tiếp nhận, vận chuyển vào
mặt trận Trị - Thiên được 300 tấn hàng, phần lớn là vũ khí, thuốc chữa bệnh,
quân trang và dụng cụ sản xuất nông nghiệp cho đồng bào các dân tộc miền núi
Trị - Thiên.
II. GIAI ĐOẠN TỪ GIỮA NĂM 1965 ĐẾN
GIỮA NĂM 1975
Từ đầu
năm 1965, trước sự phá sản xuất chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang dùng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Mục tiêu chủ yếu
của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
là đánh bại cách mạng miền Nam
trong vòng 25-30 tháng. Biện pháp chủ yếu của chiến lược mới của Mỹ ở miền Nam
là “tìm và diệt”, sau đó là “tìm diệt và bình định” được coi là
chiến lược hai gọng kìm: đưa quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam, đồng thời dùng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào
Nam, cô lập và đè bẹp cách mạng miền Nam, làm suy yếu căn cứ địa cách mạng của
cả nước, hậu pưhơng lớn của cuộc kháng chiến.
Trước
tình hình đó, ngày 22/3/1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra
lời kêu gọi: “Dù 10 năm, 20 năm hay lâu dài
hơn nữa, dù có phải chịu đựng khó khăn gian khổ, chúng ta cũng sẵn sàng quyết
đánh, đánh đến cùng, đánh đến khi nào không còn một bóng giặc Mỹ trên đất nước
ta mới thôi”.
Trước
tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, Ban Giao - Bưu - Vận tỉnh đã
tập trung phục vụ nhiệm vụ chính trị là “Giữ
vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công địch, với phương châm
đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính..., tranh thủ thời gian cơ giành thắng
lợi quyết định trong thời gian ngắn trên chiến trường”.
Chỉ
trong 28 ngày của mùa xuân 1965, quân dân Quảng Trị đánh 82 trận, trong đó có
thành tích phá sập 3 cầu nhằm cắt đứt giao thông địch trên các tuyến, loại khỏi
vòng chiến đấu trên một ngàn tên địch và phá huỷ phương tiện vận chuyển của
chúng gồm 26 GMC, 10M113...
Phối hợp
với hoạt động vũ trang, hàng ngàn người ở đồng bằng đã tham gia phá hoại giao
thông địch.
Từ tháng
3 đến cuối năm 1965, cán bộ công nhân viên Ban Giao - Bưu - Vận tỉnh tích cực
phục vụ cuộc “Hội nghị nhân dân du kích
chiến tranh của tỉnh”, “Đại hội lần thứ nhất của Hội nông dân giải phóng tỉnh
Quảng Trị”, “Đại hội Đảng bộ Quảng Trị lần thứ VI”, cùng với các cơ quan
đơn vị cấp tỉnh đối phó với trận càn lớn của Mỹ - nguỵ tái chiếm chiến khu Ba
Lòng từ trung tuần tháng 8/1965...
Sau khi
chiến khu Ba Lòng và một số vùng tiền chiến khu Ba Lòng và một số vùng tiền
chiến khu vực bị Mỹ - ngụy chiếm đóng,
phong toả, vận tại gặp nhiều khó khăn, nhưng công tác giao liên vẫn duy trì
hoạt động, điểm vượt qua đường 9 dời lên phía trên cầu Đầu Mầu. Lúc này việc
vận tải hàng hoá cho Trị Thiên do hậu cần quân khu Trị - Thiên - Huế đảm nhận.
Để kịp phục vụ chiến trường Trị - thiên nóng bỏng, Trung ương Đoàn Thanh niên
lao động Việt Nam tăng cường đơn vị Thanh niên xung phong (gồm 500 chiến sĩ và
cán bộ) gọi là K53, do các đồng chí võ Phi Diển, Nguyễn Hữu Đến chỉ huy. K53
trực thuộc hậu cần quân khu, chuyên làm nhiệm vụ nhận khối lượng hàng do Ban
Thống nhất chi viên rồi vận chuyển vào cho Trị Thiên.
Để quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 BCH TW
Đảng, Tỉnh uỷ Quảng Trị mở Hội nghị bất thường 01/1966. Hội nghị soát xét lại
tình hình ở địa phương và nhất trí nhận định: “Địch hấp tấp đưa quân Mỹ và chư hầu đến Quảng Trị là ở trong thế bị
động, đối phó với bộ chủ lực của ta ở mặt trận đường 9. Do đó, tuy lực lượng
địch đông, nhưng nông thôn đồng bằng vẫn sơ hở, tương quan lực lượng giữa ta và
địch trên chiến trường nông thôn đồng bằng Quảng Trị vẫn không thay đổi”.
Căn cứ tình hình nhiệm vụ mới, Hội nghị Tỉnh uỷ quyết
định chia tách Ban Giao - Bưu - Vận thành 2 ban. Ban Kinh tế và Ban Giao - Bưu.
Ban Kinh tế do đồng chí Hùng Sơn, Tỉnh uỷ viên làm
Trưởng ban; hai đồng chí: Thuận (tức Hoàng Cư), Phú (tức Nguyễn Hạt) làm Phó
Trưởng ban và một số cán bộ do Trung ương chi viện như: Do (tức Lê Mậu Cẩm),
Trường Sinh, Trần Lê Vinh, Nguyễn Chiến, trần Cuộc, Hải Sơn v.v...
Ban kinh tế có nhiệm vụ: tuyên truyền vận động nhân dân
vùng giải phóng tăng gia sản xuất, xây dựng căn cứ địa cách mạng; mở chiến dịch
góp gạo nuôi quân; tổ chức thi mua, khai thác nguồn lương thực, thực phần vùng
địch tạm chiến...Lực lượng vận tải của Ban có trên 400 người hình thành 3 đại đội vận tải, một trung
đội đạo lộ. Ngoài lực lượng trên, được sự đồng ý của Tỉnh uỷ, hàng tháng, hàng
quý, Ban còn huy động 3 , 4 đợt dân công ở ngoài vùng giải phóng, lực lượng cán
bộ, công nhân viên ở các cơ quan, bộ đội ở các đơn vị cùng tham gia mở các
chiến dịch vận chuyển.
Tháng 4/1966, Bộ Chính Trị và Quân uỷ Trung ương quyết
định tách Trị - Thiên ra khỏi khu V, thành lập Khu uỷ Trị - Thiên, bao gồm các
Đảng bộ: Quảng Trị, Thừa Thiên đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành
Trung ương và Bộ Chính trị. Bộ Chính trị uỷ nhiệm cho Quân uỷ Trung ương trực
tiếp chỉ đạo mọi mặt đối với Khu uỷ trị - Thiên. Căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ
Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập khu Trị - thiên đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ Trị - Thiên, do Thiếu tướng Trần Văn
Quang - Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Bí thư Khu uỷ, kiêm
Tư lệnh Quân khu. Quân uỷ Trung ương cũng xác định nhiệm vụ cho chiến trường
Trị - Thiên là “Tiêu diệt và làm tan rã
phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang...để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng
khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi. Cắt đứt giao thông chiến lược của địch,
xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị -
Thiên”.
Để buộc
chủ lực cơ động chiến lược của Mỹ và ngụy quyền Sàu Gòn phải đối đầu với khối
chủ lực của ta ở Miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường khu V, Nam
bộ, Tây Nguyên mà trực tiếp là vùng đồng bằng Trị - Thiên tiến công và nổi dậy,
tháng 6/1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập mặt “Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị” gọi tắt là “Mặt trận B5”. Nhiệm
vụ chỉ yếu của mặt trận là: “Tạo nên một
hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của địch trên chiến trường miền Nam,
buộc địch phải phân tán lực lượng lên chiến trường rừng núi, thực hiện tiêu
diệt chiến lược đối với quân cưo động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ
lực mạnh của ta ở miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác,
trực tiếp nhất là đồng bằng Trị - Thiên,
làm cho địch bị đồng càng bị động hơn, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh
trên bộ ra Bắc, đặc biệt là vùng Quân khu IV của ta”.
Mặt
trrận đường 9 - Bắc Quảng Trị gồm 3 huyện Gio Linh - Cam Lộ - Hướng Hoá. Đặc
điểm của chiến trường đường 9 - Bắc Quảng Trị đối với ta là cửa ngõ để tiến vào
giải phóng miền Nam;
đối với địch là tuyến đầu ngăn chặn lực lượng cách mạng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa.
Với đặc điểm đó, sự đi lạic của ta ở khu vực này rất
khó khăn.Việc vận tải của Ban Kinh tế chỉ đủ cung cấp cho lực lượng bộ đội, cán
bộ của ta bám trụ hoạt động tại chỗ.
Với ý
nghĩa đó, tầm quan trọng chiến lược đường 9 - Bắc Quảng Trị, mặt trrận B5 thực
hiện phương châm căng địch ra mà đánh, phối hợp đắc lực với các chiến trường,
hỗ trợ có hiệu quả với phong trào du kích. Trước mắt, mặt trận tập trung lực
lượng mở cuộc tiến công vào những nơi hiểm yếu trên tuyến phòng ngự đường 9 -
Bắc Quảng Trị của địch để mở thông đường vận chuyển.
Đế quốc Mỹ và tay sai biết rõ điều này, nên ngày nào Mỹ
còn ở miền Nam Việt Nam thì ngày đó chúng còn duy trì, củng cố tuyến phòng thủ
đường 9 - Bắc Quảng Trị. Chúng sẽ nổ lực với mức cao nhất nhằm chặt đứt tuyến
đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của ta.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Kinh tế khu Trị - Thiên , Ban kinh tế Quảng trị chuyển thành
phân ban kinh tế. Từ tháng 9/1966 đến tháng 10/1968, trong hoàn cảnh bom đạn ác
liệt, bị địch tìm đủ mọi cách để cắt đứt nguồn tiếp tế của cuộc kháng chiến,
Phân ban kinh tế Quảng Trị vẫn tổ chức, động viên được nhân dân đóng góp, thu
mua, khai thác ở vùng đồng bằng Triệu hải gần 4.000 tấn gạo, trong đó có 2.550
tấn do nhân dân tự nguyện đóng góp, trên 1.000 tấn do cán bộ, nhân viên Phân
ban kinh tế thu mua, khai thác trong vùng địch tạm chiếm, kịp thời cung ứng cho
lực lượng cán bộ, bộ đội đứng chân hoạt động trên địa bàn và khoảng 1.000 tấn
gạo nhập vào các kho dự trữ của tỉnh, đủ phục vụ chiến dịch xuân Mậu Thân 1968.
Với việc đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân và
việc xây dựng hàng rào điện tử ở phía Nam giới tuyến, đế quốc Mỹ gây cho ta
nhiều khó khăn và thiệt hại, nhưng với lòng dũng cảm, thông minh, sáng tạo của
quân và dân ta trong đó có lực lượng giao bưu vận, kẻ địch vẫn không thể ngăn
cản được sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, cho Trị - Thiên. Căn cứ vào đặc
điểm, tình hình và nhiệm vụ chiến trường Trị - Thiên, tháng 6/1967, Trung ương
Đảng chủ trương giải thể hai Ban Tỉnh uỷ của Quảng Trị và Thừa Thiên, thành lập
các Ban cán sự và Đảng uỷ trực thuộc Khu uỷ Trị - Thiên.
Thực hiện chủ trương đó, tỉnh Quảng Trị chia thành 3
mặt trận:
+ Mặt trận Bắc Quảng Trị gồm có Gio Linh, Cam Lộ.
+ Mặt trận Nam Quảng Trị gồm có Triệu Phong, Hải Lăng,
thị xã Quảng Hà.
+ Mặt trận miền núi Trị - Thiên gồm Nam - Bắc Hướng
Hoá và các quận miền núi Thừa Thiên.
Thực hiện Quyết định số 63/QĐ-KU ngày 05/6/1966 của Khu uỷ Trị - Thiên, Ban
Giao bưu Quảng Trị, Ban Giao bưu Thừa - Thiên do đồng chí Nguyễn Tý làm Trưởng
Ban, hai đồng chí Trần Đức Thố, Trường Thọ làm Phó Ban.
Đồng chí Trường Thị Phó ban, được Ban phân công đặc
trách khu vực phía Bắc khu Trị - Thiên gồm
Quảng Trị và 2 huyện Phong Điền, Quảng Điền.
Thực hiện Quyết định số 67/QĐ-KU về việc thành lập
Phòng thông tin VTĐ khu uỷ. Đồng chí Phạm Chí (lạc) được cử giữ chức trưởng
phòng, hai đồng chí được cử giữ chức phó phòng: Trần Thành phụ trách tổ chức,
Phạm Thuyền (Việt Hùng) phụ trách khai thác.
Ngoài một số cán bộ được điều động lên Khu, số còn lại
được điều động về các mặt trận thuộc địa bàn Quảng Trị cùng với phong trào cách
mạng đang phát triển. “Mạng lưới giao thông liên lạc giữa thôn với xã, giữa xã
với xã, giữa xã và huyện được hình thành đều khắp”.
Dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự hoặc Đảng uỷ Mặt trận,
các trạm giao bưu trước đây tuy đã được bổ sung mỗi trạm có từ 10 đến 15 cán
bộ, nhân viên, đến lúc này vẫn thiếu người phục vụ. Với tinh thần “Địa phương phải phục vụ bộ đội chủ lực để
đánh sập từng mảng tuyến phòng ngự của địch trên tuyến đường 9, mở hành lang
cho quân chủ lực của ta tiến vào phía Nam”. Cán bộ giao bưu lúc này
như con thoi, vừa đi công tác về đến trạm là phải đi ngay, không có thì giờ
nghỉ ngơi như trước. Khi có công văn hoả tốc đến, cán bộ giao bưu phải chuyển
ngay không kể ngày đêm. Mỗi chuyến đi công tác như vậy thường được trạm bố trí 3 người, có mang theo vũ khí để bảo vệ,
tự vệ.
Tại các cơ sở, hầu hất nam nữ thanh niên và một số
trung niên khoẻ mạnh được Chi đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng làm nòng cốt,
tổ chức thành các đội vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, tải thương. Hội
Phụ nữ làm nòng cốt lo việc hậu cần tại chỗ. Lực lượng ngư dân trên các vạn đò
chuẩn bị thuyền và người, khi có lệnh
huy động mọi người lên đường đi làm
nhiệm vụ phục vụ các mặt trận.
Ở Hướng Hoá, nhân dân các dân tộc vừa trải qua nạn đói
khủng khiếp kép dài 2 - 3 năm liền do bom đạn, chất độc hoá học của đế quốc
Mỹ gây ra, đến trước tết Mậu Thân, sức khoẻ của mọi người ở đây chưa
được bình phục. Thế nhưng, khi được tuyên truyền phổ biến về tình
hình và nhiệm vụ mới, đông đảo đồng bào các dân tộc miền núi đã
đăng ký ghi tên đi phục vụ ở tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam và
các mặt trận.
Đợt đầu (01/1968)
Hướng Hoá đã huy động được trên 3.000 dân công vận chuyển. Ngoài lực
lượng đó, Hướng Hoá còn đóng góp 2.000 thanh niên đi làm nhiệm vụ
cùng một đại đội công binh mở đường phục vụ mặt trận Huế.
Về lương thực, thực
phẩm: nhân dân các huyện, thị xã ở đồng bằng đều hăng hái đóng góp
với khối lượng lớn. Tính riêng ở mặt trận 7(mặt trận nam Quảng
Trị), trước khi mở chiến dịch Mậu Thân 1968, đã huy động được 1.242
tấn gạo. Số gạo được vận chuyển đến tập kết tại các xã, thôn nằm
ở hai tuyến hành lang vận chuyển từ vùng biển Gia Đẳng lên Hải Vĩnh,
Hải Xuân, Hải Thượng, Hải Tân, Hải
Hoà...
Đêm đêm được các đội
đạo lộ bảo vệ, dẫn đường ở các tuyến
hành lang, hàng trăm (có khi đông hàng ngàn) người gồm thanh niên
xung phong, bộ đội, cán bộ, dân công ở các vùng căn cứ tiếp nhận, đưa
lên dự trữ ở chiến khu, kịp thời cung cấp cho bội đội, cán bộ.
Đúng đêm giao thừa và
đêm mồng một tết Mậu Thân (30 và
31/01/1968), ta đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đồng
loạt tiến công địch ở khu 4 thành phố, 37 thị xã trong đó có thị xã
Quảng Trị, đánh vào hầu hết cơ quan đầu não của địch. Nhân dân vùng
nông thôn được sự giúp đỡ của lực lượng vũ trang cách mạng đã nổi
dậy phá tan từng mảng hệ thống kìm kẹp của nguỵ quyền ở thôn, xã,
thành lập chính quyền tự quản.
Ở Hải lăng, ta đã
cắt đứt giao thông địch, làm tê liệt giao thông trên toàn quốc lộ I -
đoạn từ thị xã Quảng Trị vào Phò Trạch trên một tuần lễ.
Ở Cam Lộ, Gio Linh,
nhân dân đã đóng góp trên 1.000 cây tre, phi lao, cùng bộ đội dàn “ thế trận Bạch Đằng trên sông Hiếu”
đánh chìm 3 tàu Mỹ, giết hàng chục tên Mỹ. Tuyến vận tải đường
thuỷ Cửa Việt - Đông Hà - Thị xã Quảng Trị của Mỹ bị tắc nghẽn
một thời gian gây cho Mỹ - nguỵ nhiều khó khăn trong việc chi viện cho
mặt trận Khe Sanh.
Khe sanh là một vị
trí có tầm quan trọng chiến lược của địch trên trục đường 9, nằm ở
cửa ngõ phía đông của hành lang chi viện Bắc - Nam, nhằm ngăn chặc sự
tiếp tế của miền Bắc cho miền Nam, đồng thời là bàn đạp cho cuộc
hành quân trên bộ để cắt đứt đường Hồ Chí Minh.
Để đảm bảo nhu cầu
hậu cần của chiến dịch trên 10.000 tấn hàng, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh
559 đã tổ chức riêng một binh trạm - Binh trạm 41 có khoảng 3.000 dân
công vận chuyển gồm: đồng bào các dân tộc Hướng Hoá, cùng một số
trung đoàn bộ binh và cao xạ ở Tà Khống và Bản Đông trên đường 9 để
đặc trách mũi vận chuyển phục vụ mặt trận đường 9 - Khe Sanh.
Cung vận chuyển này đã bám sát các
đơn vị chiến đấu, phát triển từ Lao Bảo, tiếp cận sâu vào từ Khe
Sanh.
Từ ngày 26/6/1968 đế quốc Mỹ bắt đầu
rút quân, đến ngày 09/7/1968, quân và dân ta chiếm cứ điểm Tà - Cơn và
hoàn toàn giải phóng Khe Sanh, giải phóng Hướng Hoá, giải phóng
đường 9, tạo cơ sở để phát triển tuyến vận tải đông, tây Trường Sơn
và chuẩn bị xây dựng tuyến đường tiêu chuẩn xuyên Bắc - Nam đông
Trường Sơn.
Thắng lợi của cuộc “Tổng
tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968” trên toàn miền Nam, cùng với
thắng lợi ở mặt trận đường 9 - Khe Sanh làm phá sản chiến lược “ chiến tranh cục bộ” làm lung lay
tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ, buộc
chúng phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt đánh phá miền
Bắc, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari để tìm giải
pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam. Nhưng với ý đồ thực
hiện giải pháp chính trị đó trên thế mạnh, hòng giữ miền Nam trong
quỹ đạo chủ nghĩa thực dân mới, đế quốc Mỹ chuyển dần từ chiến
lược chiến tranh cục bộ sang chiến lược “ Việt Nam hoá chiến tranh”. Chúng ra sức củng cố nguỵ
quyền các cấp, tăng cường bộ máy kìm kẹp, đàn áp ở các đại phương,
chuyển dần nhiệm vụ cai quản chính quyền cho nguỵ quyền , rút dần
quân Mỹ về nước để tránh sa lầy thất bại và “ búa rìu” dư luận
phản đối cuộc chiến tranh Mỹ xâm lược Việt Nam.
Sau Xuân Mậu Thân 1968
, Mỹ - nguỵ vội vã tăng quân, đưa thêm các loại phương tiện chiến tranh
hiện đại, liên tiếp tiến hành các cuộc hành quân càn quét, khủng
bố, “bình định”, lần lượt chiếm lại hầu hết vùng nông thôn đồng
bằng được giải phóng.
Mỹ – nguỵ tập trung
đánh phá dữ dội vùng giáp ranh, rải quân đóng chốt cao điểm: 367,
Động ông Do... Hầu hết các tuyến đường ngang qua vùng giáp ranh lúc
này đều bị khống chế, vận chuyển từ đồng bằng lên miền núi bị bế
tắc. Việc mở dường cho các phương tiện vận tải cơ giới qua đất Trị
Thiên từng giữ năm 1968 đến năm 1970 chững lại. Phần lớn cán bộ, lực
lượng vận tải của Ban Kinh tế phải rút lên phía tây Hương Hoá, tổ
chức các trại sản xuất lúa, màu tại các vùng A Vao, Tà Rụt, Lao
Bảo..., đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, đóng góp
lương thực( ngô, sắn, kê, củ chuối...) phục vụ kháng chiến. Cán bộ
kinh tế có trách nhiệm tổ chức thu gom , tập hợp, vận chuyển kịp
thời cung cấp cho lực lượng cán bộ, bộ đội bám trụ hoạt động, tổ
chức đánh địch, chống càn, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các khu căn cứ
cách mạng.
Cũng trong năm 1969, 1970,
Ban Kinh tế đã phối hợp với lực lượng quân đội làm đường cho ô tô từ
đường 9 đi Sà Trầm, Ly Tôn, A Cho vào Tà Rụt....
Sau Mậu Thân (1968)
tuyến vận tải 559 tập trung lực lượng vận chuyển hàng cho khu V, Nam
Bộ, Campuchia. Việc tiếp tế cho mặt trận Trị - Thiên - Huế đồng chí
Hoàng Anh - Bí thư Khu uỷ Trị - Thiên - Huế chủ trương hợp nhất
lực lượng vận
tải của Ban Kinh tế khu Trị -
Thiên - Huế và lực lượng vận tải hậu cần của quân khu Trị - Thiên
thành Tuyến vận tải Thống Nhất B
(gọi tắt TNB) do đồng chí Nguyễn Hữu Phùng làm tuyến trưởng, hai đồng chí
Nguyễn Hữu Đến và Trần Viết Một làm tuyến phó, với lực lượng vận tải trên 3.000 người, trong
đó có tiểu đoàn 70 TNXP Quảng Bình chi viện. Tuyến vận tải này được
tổ chức 16 trạm, bằng phương tiện vận tải thô sơ kết hợp cơ giới.
Phạm vi hoạt động
của Tuyến vận tải Thống Nhất B
bắt đầu từ bờ nam sông Xê - Băng - Hiên vào Rừng Thông, Cò Bồi (trạm
46) dài 220km. Tuyến vận tải Thống
Nhất B chia thành 16 trạm. Trách nhiệm của mỗi trạm vừa làm
nhiệm vụ giao bưu, vận tải (mỗi một ngày đêm phải vận chuyển trên
3.000 tấn lương thực, hàng hoá từ trạm của mình đến trạm kế cận),
vừa tổ chức sản xuất rau màu tự túc.
Ở mạn phía Bắc,
tỉnh Quảng Bình phối hợp với tỉnh Thanh Hoá tổ chức Tuyến vận tải Thống Nhất A do đồng
chí Lại Văn Ly (Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình) làm Tuyến trưởng, hai đồng chí làm tuyến phó là: Nguyễn Dê (Chủ tịch
UBND huyện Lệ Thuỷ) và Trương Thiết Trụ (Phó Trưởng ty Lương thực
tỉnh Quảng Bình). Tuyến vận tải
Thống Nhất A với nhiệm vụ được
giao là tiếp nhận số hàng hoá của Trung Ương đưa vào chiến trường Trị
- Thiên - Huế. Tuyến vận tải Thống
Nhất A Từ Thạch Bàn - Làng Ho -
Đèo Khỉ đến bờ bắc sông Xê - Băng - Hiên bằng các phương tiện vận
tải: ô tô con, xe đạp thồ hoặc gùi cõng tuỳ theo chất lượng của từng
chặng đường.
Ngoài lực lượng vận
tải của Quảng Bình chi viện nói trên khu IV còn điều động 2.000 dân
công xe đạp thồ của tỉnh Thanh Hoá, do đồng chí Hoàng Văn Hiền - Bí
thư Tỉnh uỷ trực tiếp điều hàng vận tải chi viện cho Trị - Thiên -
Huế.
Phán đoán đúng với
dự kiến sớm về âm mưu của Mỹ - Nguỵ mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 với
lực lượng trên 2 vạn quân được trang bị vũ khí các loại phương tiện
chiến tranh hiện đại, có sự yểm trợ đắc lực của không quân Mỹ, tiến
công lớn ra đường 9 - Nam Lào hòng đánh chiếm Sê Pôn, phá tận gốc
đường vận tải chiến lược Bắc - Nam của ta, Trung Ương Đảng đã chủ
trương cho toàn quân, toàn dân khẩn
trương chuẩn bị mọi mặt để phối hợp, đối phó, đập tan ý đồ của địch
muốn thử nghiệm công thức tiêu biểu
của chiến lược“ Việt Nam hoá chiến tranh”: bộ binh nguỵ + hoả lực + hậu cần Mỹ.
Thực hiện chủ Trương
của Trung ương Đảng: “ Lực lượng vũ
trang của mặt trận Bắc Quảng Trị đánh mạnh vào các đường giao thông,
tập kích sân bay, kho tàng, bến cảng, buộc Mỹ phải tăng thêm 2 lữ
đoàn Mỹ và 3 tiểu đoàn pháo binh để giải toả. Giữa tháng 3/1971, bộ
đội địa phương Quảng Trị phối hợp với các phân đội đặc công của quân
khu IV đánh chìm 4 tàu, làm giao thông địch trên dòng sông từ Đông Hà
đến Cửa Việt bị tắc nghẽn một thời gian”.
Phối hợp với mặt
trận đường 9 - Nam Lào, được sự chỉ đạo của Trung ương, Tuyến vận tải Thống Nhất B đã tập
trung sức lực phục vụ chiến dịch Trung Lào như vận tải lương thực,
thực phẩm, súng đạn, vây đánh bắt biệt kích, bắn máy bay Mỹ...
Kết quả cuộc hành
quân Lam Sơn 719 của Mỹ - nguỵ đã bị quân và dân hai nước Việt, Lào
đánh bại 21.102 tên địch đã bị tiêu diệt và bắt sống.
Phát huy chiến thắng
đường 9 - Nam Lào, trong các năm 1971, 1972, ngành Giao thông vận tải
của Trị - Thiên - Huế tập trung lực lượng vận tải vừa phục vụ chiến
đấu, vừa tiến hành xây dựng thêm kho tàng để kịp tiếp thu hàng chi
viện của Trung ương; đồng thời phối hợp với các đơn vị bộ đội tu
sửa, mở thêm các tuyến đường 70, 71, 72, 73, 14, 15N nhằm phục vụ giai
đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 6/1971, Trung
ương Đảng ra quyết định lập lại Tỉnh uỷ Quảng Trị. Để đối phó âm
mưu địch, Hội nhị Tỉnh uỷ đề ra nhiệm vụ: “ Phải tích cực làm thay đổi tương quan lực lượng ở đồng bằng,
tạo cho được địa bàn ở nông thôn... chuẩn bị khả năng cả 3 vùng cho
xuân hè 1972”
Để đảm bảo thắng
lợi cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972, nhiệm vụ bảo đảm giao
thông trên hành lang vận tải Bắc - Nam giữ vị trí quan trọng.
Được Ban Giao - Bưu khu
Trị - Thiên - Huế bổ sung về một số cán bộ, Ban Giao - Bưu Quảng Trị
được thành lập do đồng chí Nguyễn Trưng làm trưởng ban, đồng chí Quang Kiên làm phó ban.
Từ tháng 7/1971 trở
đi, mạng lưới giao bưu trên địa bàn Quảng Trị ngày càng hoàn chỉnh,
việc kết hợp giữa tỉnh với các huyện, thị chặt chẽ. Nhận rõ tình
hình và nhiệm vụ mới, anh chị em cán bộ, công nhân viên ngành giao bưu
đã phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng,
đặc biệt là phục vụ “Cuộc tiến
công chiến lược năm 1972”.
Việc vận tải phục
vụ chiến đấu từ cuối năm 1971 về sau do lực lượng vận tải bằng ô tô
đảm nhiệm là chủ yếu. Lực lượng cán bộ và lực lượng vận tải của
Ban Kinh tế khu được bố trí về hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên. Ở
Quảng Trị tập trung xây dựng kho tàng, tổ chức lực lượng vận tải,
tiếp nhận hàng hóa do Trung ương chi viện và khai thác lương thực, thực
phẩm, hàng hoá tại chỗ phục vụ cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Ngày 01/5/1972, Quảng
Trị hoàn toàn giải phóng, đánh dấu một mốc vẻ vang trong lịch sử
chống ngoại xâm của tỉnh nhà.
Quảng Trị là tỉnh
đầu tiên của miền Nam
được giải phóng. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ
quan trọng. Địa bàn Quảng Trị lúc này có vị trí chiến lược cả về
chính trị, quân sự, ngoại giao....Trong lúc đó, về hạ tầng cơ sở,
trước hết là hệ thống đường sá trải qua chiến tranh khốc liệt, tất
cả điều bị tàn phá, hư hỏng nặng nề...
Đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của chiến trường, thực hiện chủ trương của Ban Thống nhất Trung
ương, ngày 08/5/1972, Bộ Giao thông Vận tải quyết định thành lập Ban
GTVT đặc biệt. Đồng chí Hồ Văn Xinh (nguyên là Bí thư Đảng uỷ Cục
Quản lý đường bộ) được Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ giao nhiệm vụ chỉ
huy Ban GTVT đặc biệt với bộ khung gồm 30 cán bộ và 3 đại đội TNXP
nhận từ các tỉnh: Thanh Hoá, Hà Tĩnh, với nhiệm vụ vào Quảng Trị
khôi phục xây dựng GTVT phục vụ dân sinh, kinh tế, quân sự, chính trị
tại Quảng Trị - một tỉnh đầu tiên được giải phóng hoàn toàn ở miền
Nam Việt Nam.
Bộ phận cán bộ cốt
cán của Ban GTVT đặc biệt gồm các đồng chí: Xinh, Giai, Trạc, Hoà,
Phụ, Hà, Khai, Yết...lên đường trước bằng hai chiếc xe con và đến
Quảng Trị vào ngày 22/5/1972. Ban GTVT đặc biệt đóng tại Xóm Cau, thôn
Hà Thượng - huyện Gio Linh chi viện 3 chiếc xe ban Giải phóng của Trung
Quốc. Ba chiếc xe này được Ban sử dụng vào việc vận chuyển, khai
thác vật liệu ở các căn cứ quân sự của Mỹ nguỵ trước đây như Quán
Ngang, Dốc Miếu...đưa về khu căn cứ của tỉnh ở Tây Gio Linh để xây
dựng, củng cố hầm hào trú ẩn cho các cơ quan của tỉnh và bệnh viện
dã chiến...
Sau khi ổn định nơi ăn
ở, chỗ làm việc của Ban lãnh đạo, theo yêu cầu của tỉnh, Bộ GTVT
quyết định Ban GTVT đặc biệt thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ty GTVT
- Bưu điện Quảng Trị, do đồng chí Hồ Văn Xinh - Uỷ viên Uỷ ban nhân dân
cách mạng tỉnh làm Trưởng Ty và 3 Phó trưởng ty: Trần Công Khuyên phụ
trách giao thông, Lê Văn Giai phụ trách vận tải, Đào Bá Nghĩa (Thọ)
phụ trách bưu điện.
Thực trạng GTVT Quảng
Trị lúc này qua khảo sát như sau:
- Đường 1: Từ Hiền
Lương đến bắc cầu Mỹ Chánh: toàn bộ cầu công đều bị đánh sập. Đoạn
đường Hiền Lương - Dốc Miếu: nền đường thấp và hẹp, so với trước
1945 chưa có gì thay đổi. Đoạn đường Dốc Miếu - Đông Hà: nền đường
có mở rộng thêm, nhưng mặt đường chưa làm nhựa. Đoạn đường Đông Hà -
Mỹ Chánh: nền đường được mở rộng và mặt đường được trải nhựa rộng
7m.
- Đường 9: Từ Đông Hà
đến Lao Bảo: toàn bộ các cầu trên tuyến này điều bị đánh sập, xe ô
tô phải đi đường tránh và ngầm. Trong đó, đoạn đường từ Đông Hà đến
Km 26: nền đường được mở rộng, mặt đường bê tông nhựa rộng 7m, xe chỉ
đi được từng đoạn ngắn vì có nhiều hố bom. Đoạn đường từ Km 26 đến
Khe Sanh - Lao Bảo: nền đường nhỏ, mặt đường bị phá hoại hoàn toàn.
- Các tuyến đường
thuộc hệ thống đường Hồ Chí Minh như: 14A, 15N, đường 42(Cam Lộ - Bến
Tắt) nay gọi là đường 15, đường Lìa ( Hướng Hoá) chỉ có tăng và xe 3
cầu đi được.
- Các đường tỉnh
khác như đường Hiền Lương - Xuân Mỵ, Hiền Lương - Cửa Tùng, Hiền Lương
- Cợ Hôm, Chợ Cầu - Cồn Tiên, Hà Thanh - Nam Đông, Quán Ngang - Nam Đông,
Quán Ngang - Mai Xá, đường 71 (Sòng - Cầu Đuồi), đường Vĩnh Thuỵ,
đường Ái Tử - Trừ Lấu, đường thị xã Quảng Trị - Hải Lệ, đường 68
(Thị xã Quảng Trị - Ngô Xá..), đường Diên Sanh - Mỹ Thuỷ, đường Mỹ
Chánh - Động Ông Do, đường Mỹ Chánh - Hải Tân v.v... phần lớn điều bị
bom đạn làm hư hỏng nặng, phần còn lại xe không đi được, chỉ đi được
từng đoạn ngắn nhưng cũng rất khó khăn.
- Về đường sông, có
tuyến Cánh Hòm - Mai Xá nối sông Bến Hải với sông Thạch Hãn, nhưng
tại Cánh Hòm có một đập đá do Mỹ- Diệm đắp trong năm 1958, vừa dùng
cho quân sự, vừa ngăn sông Cánh Hòm không cho các phương tiện ghe,
thuyền của ta chở hàng hoá, vũ khí từ Vĩnh Linh vào chiến trường
Triệu Hải...
Những ngày cuối
tháng 6/1972 trở đi, sau khi được Mỹ hứa tăng viện trợ, Tổng thống
nguỵ quyền miền Nam Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân
tái chiếm Quảng Trị, cuộc hành quân này mang tên “ Lam Sơn 72”.
- Trước yêu cầu cấp
bách phải bảo vệ quê hương vừa mới được giải phóng, Tỉnh uỷ Quảng
Trị chủ trương cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh “ Kiên quyết
phối hợp với bộ đội chủ lực đánh bại cuộc phản kích của địch” và
đề ra biện pháp tập trung lực lượng giữ cho được thị xã Quảng Trị,
nhanh chóng hình thành chiến tranh du kích phái sau lưng địch, tổ chức
sơ tán dân (người già, phụ nữ, trẻ em) của hai huyện Hải Lăng, Triệu
Phong và thị xã Quảng Trị ra các huyện Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh và
Lệ Thuỷ (Quảng Bình), tích cực phòng tránh, hạn chế thiệt hại...
Về phía địch, khi
bắt đầu chiến dịch lấn chiếm, chúng tập trung cao độ các loại phi
pháo, kể cả B52, pháo tăng tốc đánh phá dữ dội, trước hết là các
tuyến đường bộ, đường sông suốt ngày đêm. Lúc này chỉ có xe quân sự
của ta hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn nên việc bảo đảm giao
thông do lực lượng quân đội đảm nhiệm. Việc đưa nhân dân đi sơ tán do Ty
Giao thông vận tải Quảng Trị đảm nhiệm.
Trước tình hình đó,
một mặt ngành GTVT tỉnh tập trung sức lực cùng với các ngành
đối phó; mặt khác báo cáo thực
trạng tình hình gai thông vận tải ở tỉnh lên Bộ, xin ý kiến của Bộ về chủ trương kế hoạch và giải
pháp thực hiện cho phù hợp với đặc điểm của chiến trường lúc đó.
+ Tập trung sức bảo
đảm giao thông đường thuỷ bằng phương tiện thuyền máy, thuyền chèo tay
của bộ đội và nhân dân từ Triệu - Hải khu vực Vĩnh Linh theo các
sông: Thạch Hãn, Hiếu, Vĩnh Định, Cánh Hòm.
+ Tuyến quốc lộ 1:
đoạn từ cầu Hiền Lương vào phía Nam Đông Hà, Ty bố trí một tổ
xe vận tải gồm 3 chiếc để vận chuyển hàng hoá, vật tư... Địch phát
hiện được tập trung phi pháo oanh tạc. Ta không đủ sức giữ tuyến quốc
lộ 1. Khoảng 5 vạn dân ở phía Nam tỉnh phải sơ tán được dẫn
đi theo đường bộ, đường sông...
+ Xin Bộ bổ sung kinh phí để đóng 32 thuyền
gỗ (mỗi chiếc có trọng tải từ 2 đến 5 tấn) có gắn máy để chủ
động trong vận chuyển. Tổ chức đưa gấp đại đội TNXP của tỉnh Thanh
Hoá vào bám chốt, bảo đảm phục vụ giao thông đường thuỷ. Trước mắt
tổ chức một cơ sở đóng thuyền và lắp máy thuyền ở xã Vĩnh Long -
Vĩnh Linh do đồng chí Hương (cán bộ trung cấp cơ khí) phụ trách. Máy
đẩy: đi mua lại của nhân dân hoặc đi thu nhặt máy hỏng đưa về sửa chữa. Tuyển thêm 30 nam thanh
niên biết lái thuyền máy. Nhờ vậy, đến quý 3/1972 lập được đội
thuyền và chở được hàng trăm tấn gạo từ Vĩnh Linh vào vùng phía Nam
giới tuyến 17.
Cán bộ công nhân viên
Ty Giao thông đã tập trung san lấp hố bom, hố pháo, sửa đường, làm
cầu, tổ chức các chuyến đò ngang qua sông Hiếu, sông Bến Hải... bảo
đảm đi lại cho các đoàn dân công, TNXP gánh gồng, gùi cõng vũ khí,
lương thực, thực phẩm kịp thời cung cấp cho mặt trận và đưa thương
binh từ tiền tuyến trở về hậu phương, hết đợt này đến đợt
khác...Tổ chức nạo vết, rà phá bom từ trường, bom nổ chậm trên các
tuyến sông, chủ yếu là tuyến sông Cánh Hòm - Mai Xá. Phối hợp với
bộ đội đưa tăng, đưa pháo ra phía trước, sẵn sàng chống trả các đợt
phản kích của Mỹ - nguỵ.
Quán triệt chỉ thị của Bộ chính trị Trung ương Đảng
và ý nghĩa cuộc chiến đấu chống địch phản kích tái chiếm thị xã
Quảng Trị trong Hè - Thu - Đông Năm 1972 là trận quyết chiến có “ Tầm quan trọng lớn về chính trị và
chiến lược”, Cán bộ công nhân viên ngành GTVT - Bưu điện tỉnh đã
nêu cao quyết tâm phục vụ kháng chiến bằng các tuyến đường giao thông vận tải, bằng những
phương tiện chuyên chở... góp phần với quân và dân ta trên mặt trận Quảng Trị vượt qua hy sinh, thử
thách lớn chưa từng có, kiên cường giữ vững địa bàn thị xã Quãng
Trị trong suốt 81 ngày đêm.
Cuộc chiến đấu vô
cùng anh dũng đó đã góp phần quan trọng cho việc thực hiện yêu cầu
nhiệm vụ quân sự, chính trị và đấu tranh ngoại giao của ta tại Hội
nghị Pari, kìm giữ dài ngày lực lượng cơ động chiến lược của địch,
tạo điều kiện cho các chiến trường
khác hoạt động; đồng thời đã tạo được thế trận phòng ngự của ta ổn
định trong thời gian tiếp sau để đánh bại các đợt tiến công mới của
địch, giữ vững được đại bộ phận vùng giải phóng thị xã Quảng Trị
cho đến ngày buộc Mỹ - nguỵ phải ký Hiệp định Pari (27/01/1973).